This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Ai không nên dùng thuốc tránh thai?

Tôi đang muốn sử dụng thuốc tránh thai (TTT) để kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, tôi được biết không phải ai cũng dùng được TTT. Vậy xin bác sĩ hỗ trợ tư vấn cho tôi những ai không nên dùng và lúc dùng TTT cần lưu ý gì?

Nguyễn Thị Dung (Nam Định)

TTT dạng uống hàng ngày là loại thuốc chứa hai loại hormon sinh dục nữ estrogen và progesteron. Thuốc có tác dụng ức chế rụng trứng, làm chất nhầy cổ tử cung ít hơn, đặc hơn nên tinh trùng khó chui về trong buồng tử cung, làm nội mạc tử cung mỏng hơn gây khó khăn cho việc làm tổ của phôi. Ưu điểm của thuốc là giúp chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, giảm đau bụng, đau lưng trước hành kinh, giảm nguy cơ ung thư buồng trứng, có thể chủ động lúc muốn tránh thai hoặc ngừng thuốc lúc muốn có con.

Tuy có nhiều ưu thế nổi bật tương tự nhưng cũng như bất kỳ loại thuốc nào, TTT cũng có một số tác dụng không mong muốn. Một tác dụng phụ phổ biến nhất của TTT là hình thành cục máu đông. Vì vậy, những người có nguy cơ cao hình thành cục máu đông như người bệnh tăng huyết áp mà không được kiểm soát tốt, những người có sự đông máu bất thường, có tiền sử viêm tĩnh mạch hay nghẽn mạch phổi, bệnh van tim, phụ nữ trên 35 tuổi nghiện thuốc lá, người bị viêm gan, đái tháo đường, mỡ máu cao, phụ nữ bị ung thư... không nên sử dụng dạng thuốc uống tránh thai.

Ngoài ra, khi sử dụng TTT cần lưu ý nếu như xuất hiện các triệu chứng như nhức đầu nặng, có hiện tượng cơn động kinh... cần ngưng việc sử dụng thuốc ngay và đến gặp bác sĩ sản khoa để được tư vấn thích hợp.

Khi đang dùng TTT mà bạn phải sử dụng các thuốc như thuốc chống động kinh, thuốc chống trầm cảm... cần tránh dùng vì khi sử dụng song song TTT với các thuốc này sẽ làm nâng cao độc tính của TTT.

Tốt nhất chị nên đến bác sĩ sản khoa để được tư vấn cụ thể về trường hợp của mình. Cần thông báo cho bác sĩ biết vào các thuốc chị đang sử dụng (nếu có) để bác sĩ hướng dẫn cách uống tránh sự tương tác bất lợi.

BS. Nguyễn Mai Hương

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bảo vệ mắt trong mùa thi

Vẫn biết “học tập là chuyện cả đời” nhưng hiếm khi có người tới mùa thi lại đủng đỉnh. Con mắt vốn đã bị bóc lột tàn nhẫn hàng ngày lại khốn khổ trong mùa thi. Bao nhiêu thứ phải tập trung nhìn để nhập tâm và thuộc lòng là bấy nhiêu mệt mỏi cho con mắt, bệnh tật cũng vì thế mà đeo bám. Thử điểm qua những khó chịu của con mắt học trò trong ngày thi và cách giảm nhẹ chúng.

Khô mắt, mỏi mắt, đỏ mắt ai cũng gặp

Cứ đến mỗi kỳ thi, bạn đọc học sinh-sinh viên dồn hết sức lực vào việc học suốt ngày đêm. Thời gian ngủ với nhiều người chỉ còn 5giờ, có khi ít hơn. Máy tính, sách vở làm não điều khiển mắt tập trung căng thẳng, tần số chớp mắt giảm nhiều từ 15 lần/phút chỉ còn phân nửa. Điều này làm cho lớp nước mắt trên bề mặt nhãn cần luôn bị thiếu hụt. Khô mắt, rát mắt, cay mắt từng cơn là hiện tượng sĩ tử nào cũng gặp phải. Lòng trắng hay kết mạc cũng vằn đỏ do thức đêm, do day dụi hay khô mắt. Để giảm thiểu những khó chịu trên, tiếp diễn học hành cho qua mùa thi nhiều người chọn rửa mặt hay vã nước rồi quay lại học tiếp. Mắt phát triển thành mát mẻ, trí óc tỉnh táo hơn… chứng tỏ rửa mặt là biện pháp tốt. Nhưng để trong khoảng thời gian dài và căn bản hơn vẫn là sử dụng nước mắt nhân tạo, độ nhớt thấp hoặc trung bình nâng cao cường độ ẩm ướt cho mắt. Thuốc nhỏ mắt như tear natural, refresh tear hay thuốc chứa acid hyaluronic thuộc nhóm trên. Bên cạnh đó có thể dùng thuốc nhỏ mắt có sinh tố nhóm B, taurin để nâng cao khả năng điều tiết cho mắt như taufon, mindrop…

Bảo vệ mắt trong mùa thiHọc trong điều kiện thiếu ánh sáng kéo dài sẽ khiến mắt thêm bệnh.

Nháy mắt không tự chủ diễn ra lần đầu hoặc tăng lên

Khá nhiều bệnh nhân là học sinh đến bộ phận khám than phiền là họ rất khó tập trung học hành vì đột nhiên một hoặc hai bên mắt nháy liên tục, không thể kiểm soát được. Họ bị tic mắt hay co quắp mi –blepharospasm do stress học hành, cũng có thể kèm theo bệnh mũi xoang hay bệnh của nhóm răng hàm trên. Kinh nghiệm cho thấy khó chịu này sẽ mất khi được nghỉ ngơi thích đáng, chữa dứt điểm các bệnh vừa nêu. Hiếm khi phải tiêm thuốc liệt cơ hay phẫu thuật.

Một số mẹo nhỏ sau đây sẽ giúp bạn chặn được cơn co quắp mi: Chườm nóng và massage mắt; day một số huyệt quanh mắt: toản trúc, tình minh, thái dương, nhân trung…; uống sinh tố nhóm B, A và E.

Cận thị sẽ tăng số, nếu như có tật khúc xạ mà không điều trị sẽ khó chịu hơn

Nhìn sắp cường độ cao, trong thời gian dài làm phát sinh hay nâng cao số cận thị. Điều này đã rõ ràng. Nghiên cứu của Singapore cho thấy sau mùa ôn thi về đại học mỗi thí sinh tăng sắp một D cận thị. Một số người còn bị co quắp điều tiết do mắt nhìn gần và phải điều tiết trong thời gian dài. Mắt có thể không cận nhưng đeo kính cận sẽ nhìn rõ hơn, vật nhìn mờ đi và lùi ra xa. Ai đó có viễn thị, loạn thị cũng sẽ nhanh mỏi mắt, làm việc khó tập trung nhất là là đối tượng từ chối đeo kính. Đơn giản là đôi mắt cũng như đôi chân, chỉ bắt làm việc mà không hỗ trợ sẽ gây ra mệt mỏi, không thể hoàn thành thiên chức. Đi xe máy hay ô tô là biện pháp giúp chân tránh mệt mỏi, con mắt cũng cần chăm sóc tương tự như đeo kính hay dùng thuốc. Những rắc rối này sẽ không phát triển thành khó chịu ví dụ bạn lên kế hoạch học tập thật chuẩn, đừng tra tấn con mắt và bổ sung dinh dưỡng hợp lý.

Một số bệnh vốn có sẽ nặng lên

Một số bệnh thường xuất hiện hay nặng lên khi chủ nhân của chúng bắt buộc phải thức đêm, học hành nếu như như bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch, viêm màng bồ đào, xuất huyết võng mạc. Đôi mắt ốm yếu, các hàng rào bảo vệ mắt suy sụp, chấn thương mắt do ánh sáng có thể là nguyên nhân gây bệnh tuy còn nhiều tranh cãi. Nếu các sĩ tử thấy thị lực suy giảm đột ngột, có đau nhức mắt hoặc không, thấy có vùng đen trước mắt, cảm giác ruồi bay hay sương khói trước mắt thì nên đi khám bác sĩ mắt.

Hành trang cho con mắt trong mùa thi là gì?

Các bạn học sinh sinh viên nên trang bị:

Một lọ nước mắt nhân tạo, lúc thấy khô rát hay mỏi mắt nhỏ vài giọt.

Ngoài ăn uống đủ chất có thể dùng thêm 1 loại thuốc bổ mắt tổng hợp trong kỳ thi: Eye plus, avista vision, tonic eye…có vitamin A-E-C-B1 và B2 thêm khoáng vi lượng là kẽm và selene.

Phải ngủ được thấp nhất 5 h một ngày, đừng thức vài đêm liên tục dễ bị đột quị và bệnh lý mạch máu đáy mắt.

Trà, cà phê có thể giúp bạn tỉnh táo hơn nhưng thuốc kích thích như amphetamine, bồ đà, cỏ Mỹ thì nên tránh xa kẻo mù mắt hoặc mất mạng

Tắm nước nóng, massage mắt luôn tốt cho sức khỏe và con mắt.

BS. Hoàng Cương

Những biện pháp điều trị y khoa “kinh hoàng”

Trích máu

Trích máu (bloodletting) đã được dùng như một phương pháp chữa bệnh trong hơn 3.000 năm. Phương pháp này bắt nguồn từ Ai Cập cổ đại vào khoảng 1.000 năm TCN và được vận dụng cho tới giữa thế kỷ 20. Các tư liệu y học từ thời cổ đại tới tận những năm 1940 đã đề xuất phương pháp trích máu để chữa nhiều bệnh nhất là là chứng bệnh nhiễm trùng. Phương pháp này dựa trên một lý thuyết y học cổ đại cho rằng cần phải cân bằng bốn loại chất dịch trong cơ thể đó là máu, niêm dịch, mật đen và mật vàng – tương ứng với bốn nguyên tố căn bản cấu thành vũ trụ là không khí, đất, lửa và nước thì cơ thể mới được khỏe mạnh. Sự nhiễm trùng được cho là biểu hiện của tình trạng dư thừa máu. Vì vậy, lượng máu dư thừa này cần phải lấy ra khỏi cơ thể người bệnh. Một trong số cách là tạo vết rạch ở tĩnh mạch hay động mạch. Ngoài ra người ta còn dùng đến các con đỉa để trích lấy máu. Phương pháp này thực ra cũng mang lại một số lợi ích – ít nhất đối với một số loại vi khuẩn nhất định trong những giai đoạn nhiễm trùng đầu tiên.

Trị liệu bằng nước tiểu

Chữa bệnh bằng nước tiểu vẫn được coi là cách chữa bệnh ấu trĩ, phản khoa học chỉ còn gặp tại những người già cả ở vùng nông thôn. Ngoài việc uống nước tiểu của chính mình, liệu pháp trị bệnh bằng nước tiểu còn dưới hình thức đổ trực tiếp nước tiểu vào da. Liệu pháp này được phổ biến rộng rãi bởi John W.Armstrong, người Anh trong việc điều trị các căn bệnh không như nhau bằng nước tiểu bao gồm đau răng, đau mãn tính. Những người ủng hộ phương pháp này cho rằng nước tiểu có chứa các kháng thể cấp thiết giúp cơ thể chống lại nhiều bệnh tật nhưng hiện vẫn chưa có nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào khẳng định vấn đề này.

Thủy ngân

Thủy ngân được biết đến là 1 kim loại độc nhưng nó từng được sử dụng như một lọ thuốc xịt thông thường và được kê theo toa cho bệnh nhân. Người Ba Tư và Hy Lạp sử dụng nó phổ biến vì coi đây là 1 loại thuốc thơm hữu ích. Người Trung Quốc tiêu biểu như Tần Thủy Hoàng tin dùng thủy ngân để nâng cao tuổi thọ, kiếm tìm sự trường sinh bất lão. Thủy ngân cũng được sử dụng để điều trị căn bệnh giang mai trong giai đoạn khoảng từ năm 1363 đến năm 1910. Các hợp chất này có thể được bôi trực tiếp lên da, uống hoặc tiêm nhưng các tác dụng phụ tiềm tàng bao gồm: Tổn thương da trên diện rộng, màng nhầy, tổn thương thận và não bộ, thậm chí là tử vong.

Gây sốc insulin

Đây là liệu pháp trị liệu chứng chuột rút, là một trong những điều trị thành công trước nhất cho bệnh nhân tâm thần phân liệt. Nhưng phương pháp điều trị này rất khó chịu và gây hiểm nguy cho người bệnh. Insulin ban đầu được dùng để giảm bớt lo lắng, căng thẳng, run, nôn mửa, giảm cân nhưng khi sử dụng ở liều cao hơn bệnh nhân sẽ rơi về trạng thái vô thức, không nổi loạn, hung hăng.

Bánh mì mốc

Hãy suy nghĩ lại trước lúc bạn ném miếng bánh mì mốc về thùng rác bởi bánh mì nấm mốc, lên men từng được sử dụng để điều trị các vết thương ở Serbia, Trung Quốc và Hy Lạp cổ. Nó giúp ngăn ngừa các vết thương nhiễm trùng. Việc dùng bánh mì mốc được coi là 1 trong những dạng thuốc kháng sinh trước hết và lâu đời nhất để chống lại bệnh tật.

Phẫu thuật cắt não lobotomy

Lobotomy là phương pháp phẫu thuật điều trị gây tranh cãi đối với 1 số hình thức của bệnh tâm thần. Phương pháp này khá phổ biến về cuối thập niên 1930 và vẫn được sử dụng liên tục cho đến khoảng giữa thập niên 1950 nhằm giảm số lượng bệnh nhân quá tải trong bệnh viện. Trong phẫu thuật Lobotomy, các bác sỹ sẽ khoan 1 lỗ nhỏ ngoài hộp sọ của người bệnh, tạo vết rạch về thùy não và sau đó cắt đứt dây thần kinh não kết nối khu vực điều khiển suy nghĩ tới các vùng khác của não. Hiện nhiều bệnh viện ứng dụng phiên bản khác của Lobotomy là Cingulotomy – các bác sỹ sẽ phá hủy 1 lượng nhỏ của các mô não được cho là hoạt động quá mức – được sử dụng để điều trị những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế nghiêm trọng.

Sốc điện chữa trầm cảm

ECT là liệu pháp sốc điện điều trị trầm cảm có hiện tượng lần trước tiên vào năm 930 và đây có lẽ phương pháp nguy hiểm và tàn bạo nhất từng được biết đến. Liệu pháp này đưa các xung điện vào não thông qua các điện cực gắn lên trán hoặc cấy trực tiếp trong não. Vấn đề là bệnh nhân không được tiến hành gây mê và dòng điện được sử dụng khá mạnh, gây ra nhiều đau đớn. Thậm chí ngày nay, ECT vẫn được thực hiện lúc bệnh nhân được gây mê toàn thân với tần suất 3 lần/tuần trong 3-4 tuần. Nguyên nhân do biện pháp này cho hiệu quả tốt hơn so với nhiều loại thuốc trầm cảm khác. Nhưng nó cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như mất trí nhớ, giảm trí nhớ ngắn hạn, đau đầu, buồn nôn và các khiếu nại vào tim.

Phẫu thuật khoan sọ Trepanning

Trepanation là phương pháp phẫu thuật lâu đời nhất, có hiện tượng thời kỳ đồ đá. Đây là hình thức khoan xương sọ, được thực hiện trong các nền văn minh cổ xưa. Phương pháp này giống như 1 nghi lễ để thoát khỏi các linh hồn ma quỷ - được cho là nguyên do gây bệnh tật. Người ta cũng cho rằng biện pháp này giúp chữa bệnh nhức đầu, nhiễm trùng, co giật và gãy xương. Nghe có vẻ kinh khủng nhưng Trepanning vẫn được ứng dụng tới ngày hôm nay. Y học hiện đại đã cho phép các bác sỹ can thiệp về não, dùng kỹ thuật và công cụ để khoan thẳng về sọ người bệnh nhằm khắc phục các vết máu tụ do xuất huyết nội, chấn thương đầu hoặc đột quỵ.

Minh Huệ

(Theo LS tháng 6 2017)

18 ngày ‘cân não’ cứu hai mẹ con của sản phụ bị bệnh tim phức tạp

Một bé gái nặng 2,2kg chào đời trong niềm hạnh phúc vô bờ bến, song ít ai biết được rằng để có được ‘quả ngọt’ ấy, những người thầy thuốc áo trắng đã phải lao tâm khổ tứ biết nhường nào…

Niềm vui của bệnh nhân Ng. trong ngày được ra viện.

Hành trình kéo dài tuổi thai cứu sống con, mổ thay van tim cứu sống mẹ

TS.BS. Phạm Thị Tuyết Nga, Trưởng phòng C2 – Khoa Điều trị tích cực, Viện Tim mạch cho biết, bệnh nhân (BN) nữ 25 tuổi, quê Nghệ An, bị bệnh lý thấp tim đã thay van 2 lá nhân tạo ở BV địa phương cách đây 4 năm. BN vẫn uống thuốc đều đặn, theo dõi sát sao tình trạng sức khỏe tại BV tỉnh. Tuy nhiên đến tuần thai thứ 32, BN đột nhiên có hiện tượng khó thở, khó thở nâng cao dần lúc đi lại. BN đến khám ở BV địa phương, kết quả siêu âm chẩn đoán kẹt van nhân tạo do huyết khối ở tuần thứ 32 của thai kỳ. Sau đó BN nhanh chóng nhất được chuyển đến Viện Tim mạch trong tình trạng khó thở nhiều, nhịp tim nhanh 100-110lần/phút.

Tuy nhiên ở đây, các bác sĩ nghe thấy tiếng van nhân tạo còn khá rõ, phổi nghe bình thường, không có tiếng ran ẩm, huyết áp không thấp, tình trạng khó thở khi này vẫn chưa đến mức dữ dội hoặc phù phổi cấp như các ca bệnh kẹt van tim do huyết khối nặng khác cần phải mổ cấp cứu ngay, tuy nhiên, diễn biến nặng lên cũng là điều khó lường. Tuy nhiên ví dụ mổ thay van tim cho sản phụ thì có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của thai nhi, mà ví dụ mổ lấy thai trước khi mổ thay van tim cho mẹ thì có thể thai nhi chưa thực sự trưởng thành, mặc dù về mặt lý thuyết và thực tế, sự phát triển của y học hiện tại vẫn có thể nuôi dưỡng được những trẻ sơ sinh thiếu tháng và thiếu cân nặng như thế, nhưng dù sao, ví dụ thai nhi được ở trong buồng tử cung của mẹ thêm 1-2 tuần nữa thì vẫn tốt hơn cho trẻ sau sinh. Lúc này trọng lượng thai đo được trên siêu âm thai khoảng 1,5-1,7kg…

Trước trường Hợp này, các bác sĩ đã tiến hành thăm khám tỉ mỉ, hội chẩn và cân nhắc mọi điều hơn thiệt đối với sản phụ và thai nhi. Một quyết định khá táo bạo đã được đưa ra: tiếp diễn chống đông máu hiệu quả đối với mẹ, mục đích không để huyết khối tiếp tục hình thành trên van tim, ít nhất là duy trì tình trạng van tim của mẹ không bị huyết khối bám thêm, huyết khối cũ không gây ra biến cố với mẹ, tranh thủ thời gian này để thai phát triển và hoàn thiện thêm, sẽ cải thiện mổ lấy thai tại tuần thứ 34 của thai kỳ và sau đó thay van tim cho mẹ, tuy nhiên trong quá trình theo dõi, nếu như tình hình xấu đi thì phải có ngay hướng giải quyết đảm bảo an toàn cho cả mẹ và con…

“Rất may mắn, trong suốt khoảng thời gian theo dõi và điều trị, tình trạng BN khá ổn định, mức độ khó thở không tăng lên, chênh áp qua van tim duy trì tại mức độ vừa phải trên siêu âm Doppler tim, thai nhi phát triển thông thường và có tăng cân. Hàng ngày bệnh nhân được truyền thuốc chống đông máu Heparin theo đường tĩnh mạch và bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ về xét nghiệm đông máu… Thế nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến… Sang đến ngày thứ 17 của quy trình theo dõi – cũng là lúc thai nhi bước sang tuần thứ 35 tuần, khoảng 12 giờ trưa, sản phụ đột ngột khó thở nhiều lên, tim đập nhanh và siêu âm tim thấy chênh áp qua van nhân tạo nâng cao 4-5 lần so với ngày hôm trước.

Sau lúc tiếp nhân được báo cáo về tình trạng bệnh nhân, PGS.TS. Tạ Mạnh Cường, Phó Viện trưởng đã chỉ đạo chuyển sản phụ ngay đến Phòng Cấp cứu Tim Mạch C1, sử dụng thuốc trung hòa thuốc chống đông máu trong người sả phụ và liên lạc với PGS.TS. Phạm Bá Nha, trưởng khoa Sản Bệnh viện Bạch Mai để mổ lấy thai ngay trong chiều ngày hôm đó: 1 bé gái khỏe mạnh, nặng 2,2kg đã chào đời trong niềm vui hân hoan của gia đình và các nhân viên y tế... Khi tính mạng của sản phụ đã tạm thời an toàn, sản phụ được chuyển vào Viện Tim mạch để tiếp tục hồi sức, chuẩn bị cho cuộc mổ thay van tim nhân tạo bị huyết khối gây kẹt vào ngày hôm sau ở Đơn vị Phẫu thuật Tim Mạch thuộc Viện Tim Mạch Bệnh viện Bạch Mai do TS. Dương Đức Hùng làm trưởng Đơn vị… Và rất vui mừng, chỉ 1 tuần sau mổ, BN đã khỏe mạnh và xuất viện về với con nhỏ”- TS. Phạm Tuyết Nga chia sẻ…

Bác sĩ vừa điều trị vừa ‘xin tiền’ giúp bệnh nhân

Nói về ca bệnh này, PGS.TS Tạ Mạnh Cường, Phó Viện trưởng Viện Tim mạch cho biết, đây là tình trạng bệnh lý tim và sản, cùng một lúc có hai tính mạng (cả người mẹ và đứa bé) lâm vào tình trạng nguy hiểm. Trước đây, các bác sĩ Viện Tim mạch đã điều trị cho nhiều sản phụ kẹt van tim, bên cạnh đó hầu hết các ca bệnh đều trong trường hợp mổ cấp cứu lập tức vì mức độ khó thở nhiều chứ không trì hoãn kéo dài được như trường hợp này.

“Mặc dù nhìn trên siêu âm, van tim nhân tạo của người mẹ đã bị kẹt nguy hiểm tới thế nhưng dường như người mẹ lại “chấp nhận” được cái van bị kẹt như vậy. Bằng chứng là lẽ ra mức độ khó thở phải dữ dội nhưng ở BN này khó thở ở mức vừa phải; lẽ ra dòng máu chảy qua van rất xiết nhưng xem ra lại thấy không xiết lắm; và lẽ ra người mẹ sẽ phù phổi, thở hổn hển nhưng lại không tới mức như vậy. Hơn nữa, điều khiến chúng tôi phải cân nhắc đó là tình trạng tuổi thai đang trong ranh giới sắp cuối thai kỳ, nếu mổ lấy thai sớm quá thì cũng có thể có những rủi ro, khiếm khuyết về sức khỏe cho bé. Chính điều này gây nhiều mâu thuẫn, đấu tranh trong tư tưởng rất quyết liệt, thậm chí có thể nói là rất “cân não” đối với người thày thuốc - vừa muốn duy trì làm sao cứu được mẹ lại vừa đảm bảo an toàn cho con. Do vậy có thể nói, để duy trì an toàn được tuần thai từ 32 tới 35 tuần, sau đó trẻ chào đời khỏe mạnh, người mẹ mổ thay van thành công là 1 điều hiếm gặp…”- PGS. Tạ Mạnh Cường phân tích.

Thêm về đó, các bác sĩ cho biết, trường hợp BN này phải điều trị kéo dài cho đến lúc “mẹ tròn con vuông’, trong lúc gia cảnh lại quá khó khăn, chỉ có 1 người mẹ già ngoài 70 tuổi ngày đêm chăm sóc con gái. Chứng kiến hoàn cảnh éo le như vậy, các bác sĩ Viện Tim mạch vừa phải điều trị rất tốt cho BN, mặt khác lại phải tìm nguồn kinh phí cho cuộc phẫu thuật cứu cả mẹ và con...

Trong cuộc trò chuyện với các y bác sĩ, chúng tôi không khỏi xúc động lúc nghe những lời chia sẻ tự đáy lòng của những người thầy thuốc áo trắng: “Bất kỳ bác sĩ nào cũng muốn cứu chữa tối đa cho người bệnh của mình, không thể vì họ quá nghèo khó, không có tiền mà bỏ mặc hay buông xuôi. Và với mỗi BN mà bác sĩ trực tiếp điều trị, họ phải lao tâm khổ tứ rất nhiều, bằng lòng hi sinh, vất vả để đạt mục đích cuối cùng là cứu được người - không phải chỉ riêng cứu mẹ hay cứu con như trong trường hợp sản phụ này”.

Dương Hải

Biểu hiện của bệnh cường giao cảm

Vũ Thị Diệu (Nam Định)

Biểu hiện của bệnh cường giao cảm

Tim đập nhanh, tay chân run rẩy, mặt đỏ lên lúc đứng trước đám đông, lúc tức giận... là biểu hiện của tình trạng cường giao cảm của hệ thống thần kinh thực vật. Đây không phải là bệnh cấp tính nguy hiểm, nhưng nếu như tình trạng này tiếp diễn nhiều lần và trong 1 thời gian dài, người bệnh rất dễ bị tăng huyết áp và dẫn đến các biến chứng nặng nề. Vì thế, bạn cần nhanh chóng điều trị bệnh của mình, tuy nhiên, việc điều trị không đơn giản vì ngoài yếu tố thần kinh, bệnh nhân còn chịu sự chi phối của cả nhân tố di truyền và thể chất. Bệnh nhân ngoài việc dùng thuốc sẽ được vận dụng thêm 1 số phương pháp điều trị khác như tập thiền, yoga; tập tự chủ và bình tĩnh trước mọi tình huống; tránh dùng các loại thức ăn và đồ uống có chất kích thích như thuốc lá, rượu, cà phê, gia vị có tính cay nóng quá mức...

BS. Thanh Xuân

Khi “người chết” sống lại

Nghe thật có vẻ khó tin, nhưng Kolkiewicz chỉ là 1 trong nhiều người đã "sống lại sau lúc chết".

Năm 2001, 1 người đàn ông 66 tuổi đã bị ngừng tim trong ca mổ phình động mạch chủ bụng.

Sau 17 phút cố gắng hồi sức - kết hợp CPR, khử rung tim, và thuốc – các dấu hiệu sinh tồn không trở lại, và bệnh nhân được thông báo là đã tử vong. Mười phút sau, bác sĩ phẫu thuật của bệnh nhân cảm thấy có mạch đập. Bệnh nhân vẫn còn sống. Ca mổ được tiếp diễn với kết quả thành công.

Vào năm 2014, một cụ ông 78 tuổi sống tại bang Mississippi bị tuyên bố là đã chết sau khi điều dưỡng tại nhà dưỡng lão thấy ông không còn mạch. Ngày hôm sau, ông tỉnh dậy trong túi đựng xác ở nhà xác.

Đây đúng là những câu chuyện khó tin có vẻ phù hợp hơn với những bộ phim kinh dị, nhưng có 1 cái tên trong đời thực cho những trường hợp như vậy: hội chứng Lazarus.

Hội chứng Lazarus là gì?

Hiện tượng Lazarus, hay hội chứng Lazarus, được định nghĩa là sự phục hồi tuần hoàn muộn tự phát (ROSC) sau lúc ngừng hồi sức tích cực. Nói cách khác, bệnh nhân được tuyên bố là đã chết sau khi ngừng tim lại thấy hoạt động tim khôi phục trở lại.

Hội chứng được đặt theo tên của Lazarus vùng Bethany, người mà theo Kinh Tân Ước đã được Chúa Jesus hồi sinh 4 ngày sau khi qua đời.

Kể từ năm 1982, lúc hiện tượng Lazarus lần trước nhất được diễn tả trong y văn, đã có ít nhất 38 trường hợp được báo cáo.

Theo báo cáo năm 2007 của Vedamurthy Adhiyaman và cộng sự, trong khoảng 82% số trường hợp hội chứng Lazarus cho đến nay, ROSC xảy ra trong vòng 10 phút sau khi ngừng hồi sức, và khoảng 45% bệnh nhân có hồi phục thần kinh tốt.

Tuy nhiên, trong khi số trường hợp báo cáo ít có thể làm vượt trội sự hiếm hoi của hội chứng Lazarus, các nhà khoa học tin rằng hiện tượng này phổ biến hơn nhiều so với ghi nhận trong các nghiên cứu.

Đã có rất nhiều trường hợp các dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân trở lại sau khi bị tuyên bố là đã chết.

Điều gì có thể gây hội chứng Lazarus?

Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng hiện tượng Lazarus có thể là do áp lực hình thành trong lồng ngực do CPR gây ra. Khi ngừng CPR, áp lực này có thể giải phóng từ từ và kích hoạt trái tim trở lại hoạt động.

Một nhái thuyết khác là hoạt động chậm của thuốc được sử dụng trong hồi sức cấp cứu, như adrenaline.Có thể các thuốc tiêm vào tĩnh mạch ngoại vi không được vận chuyển về trong cơ thể do suy giảm hồi lưu tĩnh mạch, và khi hồi lưu tĩnh mạch được cố gắng sau khi ngừng căng phồng phổi động học, cung cấp thuốc có thể góp phần hồi phục tuần hoàn.

Tăng kali huyết là 1 cách giải thích khác cho hiện tượng Lazarus, vì nó liên quan đến ROSC chậm.

Vì có quá ít trường hợp hội chứng Lazarus được báo cáo, nên rất khó tìm hiểu cơ chế chính xác đằng sau hiện tượng này.

Nhưng có lẽ điều gì đưa người bệnh nhân trở lại cuộc sống không phải là thứ chúng ta nên quan tâm; vì có lẽ họ chưa bao giờ chết.

Nhầm lẫn giữa sống với chết

Benjamin Franklin đã từng nói: "Trên đời này không có gì là chắc chắn, trừ cái chết và thuế". Tuy nhiên, trên lâm sàng, tuyên bố về cái chết không chắc chắn như chúng ta vẫn nghĩ.

Năm 2014, có báo cáo về một phụ nữ 80 tuổi đã bị "đông lạnh lúc còn sống” trong nhà xác của bệnh viện sau khi bị thông báo nhầm là đã chết.

Cũng trong năm đó, một bệnh viện tại New York đã bị chỉ trích gay gắt sau lúc tuyên bố không chín xác vào 1 người phụ nữ là đã chết não sau khi dùng thuốc quá liều. Người phụ nữ tỉnh dậy ngay sau lúc được đưa đến phòng mổ để lấy tạng.

Các trường hợp như vậy làm nảy sinh câu hỏi, làm sao mà người ta lại có thể tuyên bố nhầm một người là đã chết?

Có 2 loại chết: chết lâm sàng và chết sinh học. Chết lâm sàng được định nghĩa là không mạch, không nhịp tim và không thở, trong lúc chết sinh học được định nghĩa là không có hoạt động não.

Nhìn vào những định nghĩa này, bạn có thể cho rằng xác định 1 người đã chết là rất tiện lợi - nhưng trong một số trường hợp, chuyện không đơn giản như vậy.

Có một số tình trạng bệnh có thể làm cho một người "có vẻ" đã chết.

Hạ thân nhiệt, chứng giữ nguyên thế, và hội chứng “khóa chặt”

Một trong những tình trạng đó là hạ thân nhiệt, trong đó cơ thể bị giảm thân nhiệt đột ngột, có thể gây tử vong, thường do tiếp xúc kéo dài với lạnh.

Hạ thân nhiệt có thể khiến nhịp tim và nhịp thở chậm tới mức sắp như không thể phát hiện được. Người ta tin rằng hạ thân nhiệt đã dẫn đến thông báo nhầm cái chết của một em bé sơ sinh tại Canada vào năm 2013.

Em bé trong vụ việc này bj đẻ rơi trên vỉa hè giữa trời lạnh. Các bác sĩ không thể bắt được mạch, và em bé được tuyên bố là đã chết. Hai giờ sau, em bé Tiến hành cử động.

Theo TS Michael Klein, Đại học British Columbia, Canada, thì sự tiếp xúc của trẻ với nhiệt độ như vậy có thể giải thích lý do. "Toàn bộ lưu thông máu sẽ dừng lại, nhưng tình trạng thần kinh của đứa trẻ có thể được bảo vệ nhờ nhiệt độ lạnh".

Chứng giữ nguyên thế (catalepsy) và hội chứng “khóa chặt” là những nếu khác khiến một người sống có thể bị nhầm là đã chết.

Chứng giữ nguyên thế đặc trưng bởi trạng thái giống “mất hồn”, hô hấp chậm, giảm cảm giác và hoàn toàn bất động, có thể kéo dài từ vài phút đến vài tuần. Tình trạng này có thể nảy sinh như 1 triệu chứng của các rối loạn thần kinh như động kinh và bệnh Parkinson.

Trong hội chứng khóa chặt, bệnh nhân nhận thức được môi trường xung quanh, nhưng bị liệt hoàn toàn các cơ vận động tự chủ, trừ các cơ kiểm soát chuyển động của mắt.

Năm 2014, tờ Daily Mail đã báo cáo vào một phụ nữ 39 tuổi người Anh, Kate Allatt, bị hội chứng khóa chặt.

Không biết về tình trạng của bệnh nhân, các bác sĩ tuyên bố cô bị chết não. Các nhân viên y tế, gia đình và bạn bè đứng cạnh giường ngủ của cô và bàn luận vào việc có nên rút máy hỗ trợ sự sống hay không. Allatt nghe được tất cả nhưng không thể nói với họ rằng mình hoàn toàn tỉnh táo.

Hội chứng khóa chặt giống như bạn bị chôn sống. Bạn có thể nghĩ, có thể cảm nhận, có thể nghe, nhưng hoàn toàn không thể giao tiếp.

Xác nhận chết không nghi ngờ

Nếu bài viết này khiến bạn cảm thấy lạnh sống lưng, thì đừng sợ hãi; Hội chứng Lazarus cực kỳ hiếm gặp, và khả năng bị tuyên bố nhầm là đã chết cũng vậy.

Tuy nhiên, những trường hợp này đã làm nảy sinh câu hỏi vào tiếp nhân định và xác nhận tử vong trong bối cảnh lâm sàng.

để xem liệu dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân có trở lại hay không.

Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng bệnh nhân nên "theo dõi thụ động" trong 10 phút sau khi chết, vì đó là khoảng thời gian mà ROSC chậm nhiều khả năng xảy ra.

"Không nên xác nhận tử vong ở bất cứ bệnh nhân nào ngay sau khi ngừng CPR", các nhà nghiên cứu viết, "và nên đợi ít nhất 10 phút nếu không muốn nói là lâu hơn, xác minh và xác nhận chắc chắn tử vong”.

Tuy nhiên, về việc hiến tạng, 1 số nhà nghiên cứu khác lưu ý rằng chờ 10 phút để xem liệu ROSC có diễn ra không lại rất tai hại.

Các hướng dẫn hiện tại khuyên nên quan sát từ hai đến 5 phút sau khi tim ngừng đập trước khi tuyên bố tử vong; dòng máu chảy vào nội tạng càng bị giảm thiểu lâu thì chúng càng khó phù hợp cho việc hiến tạng.

Căn cứ về thực tế này, các qui trình xác tiếp nhân tử vong khó có thể đánh tráo trong thời gian trước mắt.

Tuy nhiên, các chuyên gia y tế và các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng trong thời đại ngày nay, các bác sĩ có đủ chuyên môn và máy móc để xác định lúc một bệnh nhân nào đó qua đời.

BS. Cẩm Tú

(http://www.medicalnewstoday.com/articles/317645.php)

Khi mỡ “lạc lối” vào mạch máu

Thuyên tắc động mạch phổi là một loại bệnh lý hay gặp với diễn biến nhanh và nặng ngay sau khi khởi phát. Bên cạnh các nguyên do như huyết khối tĩnh mạch chi dưới, tắc mạch ối, 1 nguyên do nữa thường ít được Quan tâm đến: đó là tắc động mạch phổi do mỡ. Đây là hiện tượng mạch máu ở phổi bị thuyên tắc do những hạt mỡ gây ra. Những hạt mỡ này xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, thoát vào mạch máu, lên phổi gây tắc mạch.

Nguyên nhân nào?

Tắc mạch phổi (TMP) do mỡ thường có liên quan với chấn thương gãy, vỡ các xương dài (xương đùi, xương cánh tay, xương sườn), xương chậu và người ta thấy rằng nguyên do gãy kín thì gây TMP nhiều hơn là gãy hở (phần xương gãy có thông ra bên ngoài da). Khoảng 1-3% số bệnh nhân bị gãy các xương dài có nguy cơ bị TMP do mỡ và tỷ lệ này tăng lên theo số lượng xương bị tổn thương. Một số thống kê cho thấy TMP do mỡ có thể lên tới 33% tại những bệnh nhân bị gãy vỡ xương đùi cả 2 bên. Phần to những ca TMP do mỡ diễn ra tại người trẻ, nam giới do có liên quan đến tai nạn các loại (nhất là tai nạn giao thông). Ở trẻ em, TMP do mỡ rất ít gặp với lý do chính là tủy xương trẻ em thì thành phần tạo máu chiếm phần lớn và lượng mỡ không nhiều. Bên cạnh đó, TMP do mỡ cũng có thể do thủ thuật ép tim khi cấp cứu ngừng tim làm gãy xương sườn, do bỏng nặng, ghép tủy xương, thủ thuật hút mỡ (mỡ bụng, mỡ đùi...) trong phẫu thuật thẩm mỹ. Một số các nguyên do ít gặp khác bao gồm: viêm tụy cấp, viêm tủy xương, ly giải các khối u xương, truyền mỡ, bệnh gan nhiễm mỡ do rượu...

Khi mỡ “lạc lối” vào mạch máuBên cạnh các nguyên do như huyết khối tĩnh mạch chi dưới, tắc mạch ối, 1 nguyên do nữa thường ít được chú ý đến: đó là tắc động mạch phổi do mỡ.

Tại sao mỡ gây tắc mạch?

Có ba cơ chế có thể gây TMP do mỡ, thứ đặc biệt cơ chế cơ học do Gauss đưa ra năm 1924. Theo đó, khi các xương dài, xương to bị gãy hoặc do các nguyên do khác làm có hiện tượng những hạt mỡ nhỏ trong máu, các hạt mỡ này sẽ theo đường tĩnh mạch, lên tim phải và theo động mạch phổi lên phổi gây tắc. Vị trí động mạch bị tắc cũng như mức độ nặng sẽ phụ thuộc về kích thước của những hạt mỡ. Cơ chế thứ hai là do hiện tượng lý giải các hạt mỡ trung tính từ tủy xương sau khi về máu thành những sản phẩm có độc tính cao, gây tổn thương mạch máu cùng nhu mô phổi và cơ chế thứ ba có liên quan đến việc hoạt hóa các đông máu ngoại sinh do các sản phẩm từ tủy xương phóng thích ra sau lúc xương gãy dẫn tới việc hình thành các vi cục máu đông. Các cục máu đông này cùng với các nhân tố gây viêm (bạch cầu, các cytokines), tiểu cầu và các hạt mỡ kết hợp với nhau gây thuyên tắc và tổn thương mạch phổi.

Biểu hiện của tắc mạch phổi do mỡ

TMP do mỡ thường diễn ra ở thời điểm 12-72 giờ sau tổn thương. Hiếm gặp các trường hợp khởi bệnh ngoài giai đoạn này. Dấu hiệu của TMP do mỡ bao gồm các triệu chứng của suy hô hấp: kích thích vật vã, tím tái vã mồ hôi, nhịp thở nhanh nông, mạch nhanh, huyết áp tăng, đau ngực và nhiều khi có biểu hiện của phù phổi cấp: suy hô hấp nhanh, khạc bọt hồng. Ngoài ra, người ta cũng thấy có các triệu chứng kèm theo như rối loạn ý thức, co giật hoặc nói khó, liệt chi. Các ban xuất huyết cũng xảy ra ở khoảng 60% các trường hợp TMP do mỡ và được lý giải là do tắc các mạch nhỏ dưới da do mỡ. Một số bệnh nhân cũng có xuất huyết võng mạc, rối loạn nhịp tim và sốt cao. Chẩn đoán xác định TMP do mỡ dựa vào tiền sử bệnh nhân có các nguyên do gợi ý (chấn thương, viêm tụy cấp...) và các thông số cận lâm sàng như khí máu, Xquang tim phổi, siêu âm tim, soi đáy mắt, chụp cắt lớp vi tính sọ não...

Khi mỡ “lạc lối” về mạch máuChấn thương gãy vỡ các xương dài (xương đùi, xương cánh tay), nhất là là gãy kín là 1 trong những nguyên do gây tắc ĐMP.

Chữa trị và phòng ngừa

Điều trị TMP do mỡ bao gồm các bước như cho bệnh nhân thở ôxy và một số thuốc như corticosteroid, aspirin, heparin và N-Acetylcysteine. Trong phần lớn các trường hợp, bệnh nhân phục hồi rất tốt và không để lại di chứng nào đáng kể. Có 1 vài trường hợp suy hô hấp nặng, phải thở máy kéo dài cũng như cần đến các biện pháp hồi sức tích cực khác.

Dự bộ phận TMP do mỡ bằng các biện pháp như cố định rất tốt xương gãy, phẫu thuật sớm, làm giảm áp lực tủy xương chỗ gãy vỡ bằng dẫn lưu, phẫu thuật (để tránh cho những hạt mỡ bị đẩy vào tĩnh mạch do áp lực cao) cũng như điều trị rất tốt các bệnh lý nội khoa như viêm tụy cấp, viêm tủy xương...

TS. BS. Vũ Đức Định