This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bảo vệ mắt trong mùa thi

Vẫn biết “học tập là chuyện cả đời” nhưng hiếm khi có người tới mùa thi lại đủng đỉnh. Con mắt vốn đã bị bóc lột tàn nhẫn hàng ngày lại khốn khổ trong mùa thi. Bao nhiêu thứ phải tập trung nhìn để nhập tâm và thuộc lòng là bấy nhiêu mệt mỏi cho con mắt, bệnh tật cũng vì thế mà đeo bám. Thử điểm qua những khó chịu của con mắt học trò trong ngày thi và cách giảm nhẹ chúng.

Khô mắt, mỏi mắt, đỏ mắt ai cũng gặp

Cứ đến mỗi kỳ thi, bạn đọc học sinh-sinh viên dồn hết sức lực vào việc học suốt ngày đêm. Thời gian ngủ với nhiều người chỉ còn 5giờ, có khi ít hơn. Máy tính, sách vở làm não điều khiển mắt tập trung căng thẳng, tần số chớp mắt giảm nhiều từ 15 lần/phút chỉ còn phân nửa. Điều này làm cho lớp nước mắt trên bề mặt nhãn cần luôn bị thiếu hụt. Khô mắt, rát mắt, cay mắt từng cơn là hiện tượng sĩ tử nào cũng gặp phải. Lòng trắng hay kết mạc cũng vằn đỏ do thức đêm, do day dụi hay khô mắt. Để giảm thiểu những khó chịu trên, tiếp diễn học hành cho qua mùa thi nhiều người chọn rửa mặt hay vã nước rồi quay lại học tiếp. Mắt phát triển thành mát mẻ, trí óc tỉnh táo hơn… chứng tỏ rửa mặt là biện pháp tốt. Nhưng để trong khoảng thời gian dài và căn bản hơn vẫn là sử dụng nước mắt nhân tạo, độ nhớt thấp hoặc trung bình nâng cao cường độ ẩm ướt cho mắt. Thuốc nhỏ mắt như tear natural, refresh tear hay thuốc chứa acid hyaluronic thuộc nhóm trên. Bên cạnh đó có thể dùng thuốc nhỏ mắt có sinh tố nhóm B, taurin để nâng cao khả năng điều tiết cho mắt như taufon, mindrop…

Bảo vệ mắt trong mùa thiHọc trong điều kiện thiếu ánh sáng kéo dài sẽ khiến mắt thêm bệnh.

Nháy mắt không tự chủ diễn ra lần đầu hoặc tăng lên

Khá nhiều bệnh nhân là học sinh đến bộ phận khám than phiền là họ rất khó tập trung học hành vì đột nhiên một hoặc hai bên mắt nháy liên tục, không thể kiểm soát được. Họ bị tic mắt hay co quắp mi –blepharospasm do stress học hành, cũng có thể kèm theo bệnh mũi xoang hay bệnh của nhóm răng hàm trên. Kinh nghiệm cho thấy khó chịu này sẽ mất khi được nghỉ ngơi thích đáng, chữa dứt điểm các bệnh vừa nêu. Hiếm khi phải tiêm thuốc liệt cơ hay phẫu thuật.

Một số mẹo nhỏ sau đây sẽ giúp bạn chặn được cơn co quắp mi: Chườm nóng và massage mắt; day một số huyệt quanh mắt: toản trúc, tình minh, thái dương, nhân trung…; uống sinh tố nhóm B, A và E.

Cận thị sẽ tăng số, nếu như có tật khúc xạ mà không điều trị sẽ khó chịu hơn

Nhìn sắp cường độ cao, trong thời gian dài làm phát sinh hay nâng cao số cận thị. Điều này đã rõ ràng. Nghiên cứu của Singapore cho thấy sau mùa ôn thi về đại học mỗi thí sinh tăng sắp một D cận thị. Một số người còn bị co quắp điều tiết do mắt nhìn gần và phải điều tiết trong thời gian dài. Mắt có thể không cận nhưng đeo kính cận sẽ nhìn rõ hơn, vật nhìn mờ đi và lùi ra xa. Ai đó có viễn thị, loạn thị cũng sẽ nhanh mỏi mắt, làm việc khó tập trung nhất là là đối tượng từ chối đeo kính. Đơn giản là đôi mắt cũng như đôi chân, chỉ bắt làm việc mà không hỗ trợ sẽ gây ra mệt mỏi, không thể hoàn thành thiên chức. Đi xe máy hay ô tô là biện pháp giúp chân tránh mệt mỏi, con mắt cũng cần chăm sóc tương tự như đeo kính hay dùng thuốc. Những rắc rối này sẽ không phát triển thành khó chịu ví dụ bạn lên kế hoạch học tập thật chuẩn, đừng tra tấn con mắt và bổ sung dinh dưỡng hợp lý.

Một số bệnh vốn có sẽ nặng lên

Một số bệnh thường xuất hiện hay nặng lên khi chủ nhân của chúng bắt buộc phải thức đêm, học hành nếu như như bệnh hắc võng mạc trung tâm thanh dịch, viêm màng bồ đào, xuất huyết võng mạc. Đôi mắt ốm yếu, các hàng rào bảo vệ mắt suy sụp, chấn thương mắt do ánh sáng có thể là nguyên nhân gây bệnh tuy còn nhiều tranh cãi. Nếu các sĩ tử thấy thị lực suy giảm đột ngột, có đau nhức mắt hoặc không, thấy có vùng đen trước mắt, cảm giác ruồi bay hay sương khói trước mắt thì nên đi khám bác sĩ mắt.

Hành trang cho con mắt trong mùa thi là gì?

Các bạn học sinh sinh viên nên trang bị:

Một lọ nước mắt nhân tạo, lúc thấy khô rát hay mỏi mắt nhỏ vài giọt.

Ngoài ăn uống đủ chất có thể dùng thêm 1 loại thuốc bổ mắt tổng hợp trong kỳ thi: Eye plus, avista vision, tonic eye…có vitamin A-E-C-B1 và B2 thêm khoáng vi lượng là kẽm và selene.

Phải ngủ được thấp nhất 5 h một ngày, đừng thức vài đêm liên tục dễ bị đột quị và bệnh lý mạch máu đáy mắt.

Trà, cà phê có thể giúp bạn tỉnh táo hơn nhưng thuốc kích thích như amphetamine, bồ đà, cỏ Mỹ thì nên tránh xa kẻo mù mắt hoặc mất mạng

Tắm nước nóng, massage mắt luôn tốt cho sức khỏe và con mắt.

BS. Hoàng Cương

Những biện pháp điều trị y khoa “kinh hoàng”

Trích máu

Trích máu (bloodletting) đã được dùng như một phương pháp chữa bệnh trong hơn 3.000 năm. Phương pháp này bắt nguồn từ Ai Cập cổ đại vào khoảng 1.000 năm TCN và được vận dụng cho tới giữa thế kỷ 20. Các tư liệu y học từ thời cổ đại tới tận những năm 1940 đã đề xuất phương pháp trích máu để chữa nhiều bệnh nhất là là chứng bệnh nhiễm trùng. Phương pháp này dựa trên một lý thuyết y học cổ đại cho rằng cần phải cân bằng bốn loại chất dịch trong cơ thể đó là máu, niêm dịch, mật đen và mật vàng – tương ứng với bốn nguyên tố căn bản cấu thành vũ trụ là không khí, đất, lửa và nước thì cơ thể mới được khỏe mạnh. Sự nhiễm trùng được cho là biểu hiện của tình trạng dư thừa máu. Vì vậy, lượng máu dư thừa này cần phải lấy ra khỏi cơ thể người bệnh. Một trong số cách là tạo vết rạch ở tĩnh mạch hay động mạch. Ngoài ra người ta còn dùng đến các con đỉa để trích lấy máu. Phương pháp này thực ra cũng mang lại một số lợi ích – ít nhất đối với một số loại vi khuẩn nhất định trong những giai đoạn nhiễm trùng đầu tiên.

Trị liệu bằng nước tiểu

Chữa bệnh bằng nước tiểu vẫn được coi là cách chữa bệnh ấu trĩ, phản khoa học chỉ còn gặp tại những người già cả ở vùng nông thôn. Ngoài việc uống nước tiểu của chính mình, liệu pháp trị bệnh bằng nước tiểu còn dưới hình thức đổ trực tiếp nước tiểu vào da. Liệu pháp này được phổ biến rộng rãi bởi John W.Armstrong, người Anh trong việc điều trị các căn bệnh không như nhau bằng nước tiểu bao gồm đau răng, đau mãn tính. Những người ủng hộ phương pháp này cho rằng nước tiểu có chứa các kháng thể cấp thiết giúp cơ thể chống lại nhiều bệnh tật nhưng hiện vẫn chưa có nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào khẳng định vấn đề này.

Thủy ngân

Thủy ngân được biết đến là 1 kim loại độc nhưng nó từng được sử dụng như một lọ thuốc xịt thông thường và được kê theo toa cho bệnh nhân. Người Ba Tư và Hy Lạp sử dụng nó phổ biến vì coi đây là 1 loại thuốc thơm hữu ích. Người Trung Quốc tiêu biểu như Tần Thủy Hoàng tin dùng thủy ngân để nâng cao tuổi thọ, kiếm tìm sự trường sinh bất lão. Thủy ngân cũng được sử dụng để điều trị căn bệnh giang mai trong giai đoạn khoảng từ năm 1363 đến năm 1910. Các hợp chất này có thể được bôi trực tiếp lên da, uống hoặc tiêm nhưng các tác dụng phụ tiềm tàng bao gồm: Tổn thương da trên diện rộng, màng nhầy, tổn thương thận và não bộ, thậm chí là tử vong.

Gây sốc insulin

Đây là liệu pháp trị liệu chứng chuột rút, là một trong những điều trị thành công trước nhất cho bệnh nhân tâm thần phân liệt. Nhưng phương pháp điều trị này rất khó chịu và gây hiểm nguy cho người bệnh. Insulin ban đầu được dùng để giảm bớt lo lắng, căng thẳng, run, nôn mửa, giảm cân nhưng khi sử dụng ở liều cao hơn bệnh nhân sẽ rơi về trạng thái vô thức, không nổi loạn, hung hăng.

Bánh mì mốc

Hãy suy nghĩ lại trước lúc bạn ném miếng bánh mì mốc về thùng rác bởi bánh mì nấm mốc, lên men từng được sử dụng để điều trị các vết thương ở Serbia, Trung Quốc và Hy Lạp cổ. Nó giúp ngăn ngừa các vết thương nhiễm trùng. Việc dùng bánh mì mốc được coi là 1 trong những dạng thuốc kháng sinh trước hết và lâu đời nhất để chống lại bệnh tật.

Phẫu thuật cắt não lobotomy

Lobotomy là phương pháp phẫu thuật điều trị gây tranh cãi đối với 1 số hình thức của bệnh tâm thần. Phương pháp này khá phổ biến về cuối thập niên 1930 và vẫn được sử dụng liên tục cho đến khoảng giữa thập niên 1950 nhằm giảm số lượng bệnh nhân quá tải trong bệnh viện. Trong phẫu thuật Lobotomy, các bác sỹ sẽ khoan 1 lỗ nhỏ ngoài hộp sọ của người bệnh, tạo vết rạch về thùy não và sau đó cắt đứt dây thần kinh não kết nối khu vực điều khiển suy nghĩ tới các vùng khác của não. Hiện nhiều bệnh viện ứng dụng phiên bản khác của Lobotomy là Cingulotomy – các bác sỹ sẽ phá hủy 1 lượng nhỏ của các mô não được cho là hoạt động quá mức – được sử dụng để điều trị những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế nghiêm trọng.

Sốc điện chữa trầm cảm

ECT là liệu pháp sốc điện điều trị trầm cảm có hiện tượng lần trước tiên vào năm 930 và đây có lẽ phương pháp nguy hiểm và tàn bạo nhất từng được biết đến. Liệu pháp này đưa các xung điện vào não thông qua các điện cực gắn lên trán hoặc cấy trực tiếp trong não. Vấn đề là bệnh nhân không được tiến hành gây mê và dòng điện được sử dụng khá mạnh, gây ra nhiều đau đớn. Thậm chí ngày nay, ECT vẫn được thực hiện lúc bệnh nhân được gây mê toàn thân với tần suất 3 lần/tuần trong 3-4 tuần. Nguyên nhân do biện pháp này cho hiệu quả tốt hơn so với nhiều loại thuốc trầm cảm khác. Nhưng nó cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như mất trí nhớ, giảm trí nhớ ngắn hạn, đau đầu, buồn nôn và các khiếu nại vào tim.

Phẫu thuật khoan sọ Trepanning

Trepanation là phương pháp phẫu thuật lâu đời nhất, có hiện tượng thời kỳ đồ đá. Đây là hình thức khoan xương sọ, được thực hiện trong các nền văn minh cổ xưa. Phương pháp này giống như 1 nghi lễ để thoát khỏi các linh hồn ma quỷ - được cho là nguyên do gây bệnh tật. Người ta cũng cho rằng biện pháp này giúp chữa bệnh nhức đầu, nhiễm trùng, co giật và gãy xương. Nghe có vẻ kinh khủng nhưng Trepanning vẫn được ứng dụng tới ngày hôm nay. Y học hiện đại đã cho phép các bác sỹ can thiệp về não, dùng kỹ thuật và công cụ để khoan thẳng về sọ người bệnh nhằm khắc phục các vết máu tụ do xuất huyết nội, chấn thương đầu hoặc đột quỵ.

Minh Huệ

(Theo LS tháng 6 2017)

18 ngày ‘cân não’ cứu hai mẹ con của sản phụ bị bệnh tim phức tạp

Một bé gái nặng 2,2kg chào đời trong niềm hạnh phúc vô bờ bến, song ít ai biết được rằng để có được ‘quả ngọt’ ấy, những người thầy thuốc áo trắng đã phải lao tâm khổ tứ biết nhường nào…

Niềm vui của bệnh nhân Ng. trong ngày được ra viện.

Hành trình kéo dài tuổi thai cứu sống con, mổ thay van tim cứu sống mẹ

TS.BS. Phạm Thị Tuyết Nga, Trưởng phòng C2 – Khoa Điều trị tích cực, Viện Tim mạch cho biết, bệnh nhân (BN) nữ 25 tuổi, quê Nghệ An, bị bệnh lý thấp tim đã thay van 2 lá nhân tạo ở BV địa phương cách đây 4 năm. BN vẫn uống thuốc đều đặn, theo dõi sát sao tình trạng sức khỏe tại BV tỉnh. Tuy nhiên đến tuần thai thứ 32, BN đột nhiên có hiện tượng khó thở, khó thở nâng cao dần lúc đi lại. BN đến khám ở BV địa phương, kết quả siêu âm chẩn đoán kẹt van nhân tạo do huyết khối ở tuần thứ 32 của thai kỳ. Sau đó BN nhanh chóng nhất được chuyển đến Viện Tim mạch trong tình trạng khó thở nhiều, nhịp tim nhanh 100-110lần/phút.

Tuy nhiên ở đây, các bác sĩ nghe thấy tiếng van nhân tạo còn khá rõ, phổi nghe bình thường, không có tiếng ran ẩm, huyết áp không thấp, tình trạng khó thở khi này vẫn chưa đến mức dữ dội hoặc phù phổi cấp như các ca bệnh kẹt van tim do huyết khối nặng khác cần phải mổ cấp cứu ngay, tuy nhiên, diễn biến nặng lên cũng là điều khó lường. Tuy nhiên ví dụ mổ thay van tim cho sản phụ thì có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của thai nhi, mà ví dụ mổ lấy thai trước khi mổ thay van tim cho mẹ thì có thể thai nhi chưa thực sự trưởng thành, mặc dù về mặt lý thuyết và thực tế, sự phát triển của y học hiện tại vẫn có thể nuôi dưỡng được những trẻ sơ sinh thiếu tháng và thiếu cân nặng như thế, nhưng dù sao, ví dụ thai nhi được ở trong buồng tử cung của mẹ thêm 1-2 tuần nữa thì vẫn tốt hơn cho trẻ sau sinh. Lúc này trọng lượng thai đo được trên siêu âm thai khoảng 1,5-1,7kg…

Trước trường Hợp này, các bác sĩ đã tiến hành thăm khám tỉ mỉ, hội chẩn và cân nhắc mọi điều hơn thiệt đối với sản phụ và thai nhi. Một quyết định khá táo bạo đã được đưa ra: tiếp diễn chống đông máu hiệu quả đối với mẹ, mục đích không để huyết khối tiếp tục hình thành trên van tim, ít nhất là duy trì tình trạng van tim của mẹ không bị huyết khối bám thêm, huyết khối cũ không gây ra biến cố với mẹ, tranh thủ thời gian này để thai phát triển và hoàn thiện thêm, sẽ cải thiện mổ lấy thai tại tuần thứ 34 của thai kỳ và sau đó thay van tim cho mẹ, tuy nhiên trong quá trình theo dõi, nếu như tình hình xấu đi thì phải có ngay hướng giải quyết đảm bảo an toàn cho cả mẹ và con…

“Rất may mắn, trong suốt khoảng thời gian theo dõi và điều trị, tình trạng BN khá ổn định, mức độ khó thở không tăng lên, chênh áp qua van tim duy trì tại mức độ vừa phải trên siêu âm Doppler tim, thai nhi phát triển thông thường và có tăng cân. Hàng ngày bệnh nhân được truyền thuốc chống đông máu Heparin theo đường tĩnh mạch và bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ về xét nghiệm đông máu… Thế nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến… Sang đến ngày thứ 17 của quy trình theo dõi – cũng là lúc thai nhi bước sang tuần thứ 35 tuần, khoảng 12 giờ trưa, sản phụ đột ngột khó thở nhiều lên, tim đập nhanh và siêu âm tim thấy chênh áp qua van nhân tạo nâng cao 4-5 lần so với ngày hôm trước.

Sau lúc tiếp nhân được báo cáo về tình trạng bệnh nhân, PGS.TS. Tạ Mạnh Cường, Phó Viện trưởng đã chỉ đạo chuyển sản phụ ngay đến Phòng Cấp cứu Tim Mạch C1, sử dụng thuốc trung hòa thuốc chống đông máu trong người sả phụ và liên lạc với PGS.TS. Phạm Bá Nha, trưởng khoa Sản Bệnh viện Bạch Mai để mổ lấy thai ngay trong chiều ngày hôm đó: 1 bé gái khỏe mạnh, nặng 2,2kg đã chào đời trong niềm vui hân hoan của gia đình và các nhân viên y tế... Khi tính mạng của sản phụ đã tạm thời an toàn, sản phụ được chuyển vào Viện Tim mạch để tiếp tục hồi sức, chuẩn bị cho cuộc mổ thay van tim nhân tạo bị huyết khối gây kẹt vào ngày hôm sau ở Đơn vị Phẫu thuật Tim Mạch thuộc Viện Tim Mạch Bệnh viện Bạch Mai do TS. Dương Đức Hùng làm trưởng Đơn vị… Và rất vui mừng, chỉ 1 tuần sau mổ, BN đã khỏe mạnh và xuất viện về với con nhỏ”- TS. Phạm Tuyết Nga chia sẻ…

Bác sĩ vừa điều trị vừa ‘xin tiền’ giúp bệnh nhân

Nói về ca bệnh này, PGS.TS Tạ Mạnh Cường, Phó Viện trưởng Viện Tim mạch cho biết, đây là tình trạng bệnh lý tim và sản, cùng một lúc có hai tính mạng (cả người mẹ và đứa bé) lâm vào tình trạng nguy hiểm. Trước đây, các bác sĩ Viện Tim mạch đã điều trị cho nhiều sản phụ kẹt van tim, bên cạnh đó hầu hết các ca bệnh đều trong trường hợp mổ cấp cứu lập tức vì mức độ khó thở nhiều chứ không trì hoãn kéo dài được như trường hợp này.

“Mặc dù nhìn trên siêu âm, van tim nhân tạo của người mẹ đã bị kẹt nguy hiểm tới thế nhưng dường như người mẹ lại “chấp nhận” được cái van bị kẹt như vậy. Bằng chứng là lẽ ra mức độ khó thở phải dữ dội nhưng ở BN này khó thở ở mức vừa phải; lẽ ra dòng máu chảy qua van rất xiết nhưng xem ra lại thấy không xiết lắm; và lẽ ra người mẹ sẽ phù phổi, thở hổn hển nhưng lại không tới mức như vậy. Hơn nữa, điều khiến chúng tôi phải cân nhắc đó là tình trạng tuổi thai đang trong ranh giới sắp cuối thai kỳ, nếu mổ lấy thai sớm quá thì cũng có thể có những rủi ro, khiếm khuyết về sức khỏe cho bé. Chính điều này gây nhiều mâu thuẫn, đấu tranh trong tư tưởng rất quyết liệt, thậm chí có thể nói là rất “cân não” đối với người thày thuốc - vừa muốn duy trì làm sao cứu được mẹ lại vừa đảm bảo an toàn cho con. Do vậy có thể nói, để duy trì an toàn được tuần thai từ 32 tới 35 tuần, sau đó trẻ chào đời khỏe mạnh, người mẹ mổ thay van thành công là 1 điều hiếm gặp…”- PGS. Tạ Mạnh Cường phân tích.

Thêm về đó, các bác sĩ cho biết, trường hợp BN này phải điều trị kéo dài cho đến lúc “mẹ tròn con vuông’, trong lúc gia cảnh lại quá khó khăn, chỉ có 1 người mẹ già ngoài 70 tuổi ngày đêm chăm sóc con gái. Chứng kiến hoàn cảnh éo le như vậy, các bác sĩ Viện Tim mạch vừa phải điều trị rất tốt cho BN, mặt khác lại phải tìm nguồn kinh phí cho cuộc phẫu thuật cứu cả mẹ và con...

Trong cuộc trò chuyện với các y bác sĩ, chúng tôi không khỏi xúc động lúc nghe những lời chia sẻ tự đáy lòng của những người thầy thuốc áo trắng: “Bất kỳ bác sĩ nào cũng muốn cứu chữa tối đa cho người bệnh của mình, không thể vì họ quá nghèo khó, không có tiền mà bỏ mặc hay buông xuôi. Và với mỗi BN mà bác sĩ trực tiếp điều trị, họ phải lao tâm khổ tứ rất nhiều, bằng lòng hi sinh, vất vả để đạt mục đích cuối cùng là cứu được người - không phải chỉ riêng cứu mẹ hay cứu con như trong trường hợp sản phụ này”.

Dương Hải

Biểu hiện của bệnh cường giao cảm

Vũ Thị Diệu (Nam Định)

Biểu hiện của bệnh cường giao cảm

Tim đập nhanh, tay chân run rẩy, mặt đỏ lên lúc đứng trước đám đông, lúc tức giận... là biểu hiện của tình trạng cường giao cảm của hệ thống thần kinh thực vật. Đây không phải là bệnh cấp tính nguy hiểm, nhưng nếu như tình trạng này tiếp diễn nhiều lần và trong 1 thời gian dài, người bệnh rất dễ bị tăng huyết áp và dẫn đến các biến chứng nặng nề. Vì thế, bạn cần nhanh chóng điều trị bệnh của mình, tuy nhiên, việc điều trị không đơn giản vì ngoài yếu tố thần kinh, bệnh nhân còn chịu sự chi phối của cả nhân tố di truyền và thể chất. Bệnh nhân ngoài việc dùng thuốc sẽ được vận dụng thêm 1 số phương pháp điều trị khác như tập thiền, yoga; tập tự chủ và bình tĩnh trước mọi tình huống; tránh dùng các loại thức ăn và đồ uống có chất kích thích như thuốc lá, rượu, cà phê, gia vị có tính cay nóng quá mức...

BS. Thanh Xuân

Khi “người chết” sống lại

Nghe thật có vẻ khó tin, nhưng Kolkiewicz chỉ là 1 trong nhiều người đã "sống lại sau lúc chết".

Năm 2001, 1 người đàn ông 66 tuổi đã bị ngừng tim trong ca mổ phình động mạch chủ bụng.

Sau 17 phút cố gắng hồi sức - kết hợp CPR, khử rung tim, và thuốc – các dấu hiệu sinh tồn không trở lại, và bệnh nhân được thông báo là đã tử vong. Mười phút sau, bác sĩ phẫu thuật của bệnh nhân cảm thấy có mạch đập. Bệnh nhân vẫn còn sống. Ca mổ được tiếp diễn với kết quả thành công.

Vào năm 2014, một cụ ông 78 tuổi sống tại bang Mississippi bị tuyên bố là đã chết sau khi điều dưỡng tại nhà dưỡng lão thấy ông không còn mạch. Ngày hôm sau, ông tỉnh dậy trong túi đựng xác ở nhà xác.

Đây đúng là những câu chuyện khó tin có vẻ phù hợp hơn với những bộ phim kinh dị, nhưng có 1 cái tên trong đời thực cho những trường hợp như vậy: hội chứng Lazarus.

Hội chứng Lazarus là gì?

Hiện tượng Lazarus, hay hội chứng Lazarus, được định nghĩa là sự phục hồi tuần hoàn muộn tự phát (ROSC) sau lúc ngừng hồi sức tích cực. Nói cách khác, bệnh nhân được tuyên bố là đã chết sau khi ngừng tim lại thấy hoạt động tim khôi phục trở lại.

Hội chứng được đặt theo tên của Lazarus vùng Bethany, người mà theo Kinh Tân Ước đã được Chúa Jesus hồi sinh 4 ngày sau khi qua đời.

Kể từ năm 1982, lúc hiện tượng Lazarus lần trước nhất được diễn tả trong y văn, đã có ít nhất 38 trường hợp được báo cáo.

Theo báo cáo năm 2007 của Vedamurthy Adhiyaman và cộng sự, trong khoảng 82% số trường hợp hội chứng Lazarus cho đến nay, ROSC xảy ra trong vòng 10 phút sau khi ngừng hồi sức, và khoảng 45% bệnh nhân có hồi phục thần kinh tốt.

Tuy nhiên, trong khi số trường hợp báo cáo ít có thể làm vượt trội sự hiếm hoi của hội chứng Lazarus, các nhà khoa học tin rằng hiện tượng này phổ biến hơn nhiều so với ghi nhận trong các nghiên cứu.

Đã có rất nhiều trường hợp các dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân trở lại sau khi bị tuyên bố là đã chết.

Điều gì có thể gây hội chứng Lazarus?

Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng hiện tượng Lazarus có thể là do áp lực hình thành trong lồng ngực do CPR gây ra. Khi ngừng CPR, áp lực này có thể giải phóng từ từ và kích hoạt trái tim trở lại hoạt động.

Một nhái thuyết khác là hoạt động chậm của thuốc được sử dụng trong hồi sức cấp cứu, như adrenaline.Có thể các thuốc tiêm vào tĩnh mạch ngoại vi không được vận chuyển về trong cơ thể do suy giảm hồi lưu tĩnh mạch, và khi hồi lưu tĩnh mạch được cố gắng sau khi ngừng căng phồng phổi động học, cung cấp thuốc có thể góp phần hồi phục tuần hoàn.

Tăng kali huyết là 1 cách giải thích khác cho hiện tượng Lazarus, vì nó liên quan đến ROSC chậm.

Vì có quá ít trường hợp hội chứng Lazarus được báo cáo, nên rất khó tìm hiểu cơ chế chính xác đằng sau hiện tượng này.

Nhưng có lẽ điều gì đưa người bệnh nhân trở lại cuộc sống không phải là thứ chúng ta nên quan tâm; vì có lẽ họ chưa bao giờ chết.

Nhầm lẫn giữa sống với chết

Benjamin Franklin đã từng nói: "Trên đời này không có gì là chắc chắn, trừ cái chết và thuế". Tuy nhiên, trên lâm sàng, tuyên bố về cái chết không chắc chắn như chúng ta vẫn nghĩ.

Năm 2014, có báo cáo về một phụ nữ 80 tuổi đã bị "đông lạnh lúc còn sống” trong nhà xác của bệnh viện sau khi bị thông báo nhầm là đã chết.

Cũng trong năm đó, một bệnh viện tại New York đã bị chỉ trích gay gắt sau lúc tuyên bố không chín xác vào 1 người phụ nữ là đã chết não sau khi dùng thuốc quá liều. Người phụ nữ tỉnh dậy ngay sau lúc được đưa đến phòng mổ để lấy tạng.

Các trường hợp như vậy làm nảy sinh câu hỏi, làm sao mà người ta lại có thể tuyên bố nhầm một người là đã chết?

Có 2 loại chết: chết lâm sàng và chết sinh học. Chết lâm sàng được định nghĩa là không mạch, không nhịp tim và không thở, trong lúc chết sinh học được định nghĩa là không có hoạt động não.

Nhìn vào những định nghĩa này, bạn có thể cho rằng xác định 1 người đã chết là rất tiện lợi - nhưng trong một số trường hợp, chuyện không đơn giản như vậy.

Có một số tình trạng bệnh có thể làm cho một người "có vẻ" đã chết.

Hạ thân nhiệt, chứng giữ nguyên thế, và hội chứng “khóa chặt”

Một trong những tình trạng đó là hạ thân nhiệt, trong đó cơ thể bị giảm thân nhiệt đột ngột, có thể gây tử vong, thường do tiếp xúc kéo dài với lạnh.

Hạ thân nhiệt có thể khiến nhịp tim và nhịp thở chậm tới mức sắp như không thể phát hiện được. Người ta tin rằng hạ thân nhiệt đã dẫn đến thông báo nhầm cái chết của một em bé sơ sinh tại Canada vào năm 2013.

Em bé trong vụ việc này bj đẻ rơi trên vỉa hè giữa trời lạnh. Các bác sĩ không thể bắt được mạch, và em bé được tuyên bố là đã chết. Hai giờ sau, em bé Tiến hành cử động.

Theo TS Michael Klein, Đại học British Columbia, Canada, thì sự tiếp xúc của trẻ với nhiệt độ như vậy có thể giải thích lý do. "Toàn bộ lưu thông máu sẽ dừng lại, nhưng tình trạng thần kinh của đứa trẻ có thể được bảo vệ nhờ nhiệt độ lạnh".

Chứng giữ nguyên thế (catalepsy) và hội chứng “khóa chặt” là những nếu khác khiến một người sống có thể bị nhầm là đã chết.

Chứng giữ nguyên thế đặc trưng bởi trạng thái giống “mất hồn”, hô hấp chậm, giảm cảm giác và hoàn toàn bất động, có thể kéo dài từ vài phút đến vài tuần. Tình trạng này có thể nảy sinh như 1 triệu chứng của các rối loạn thần kinh như động kinh và bệnh Parkinson.

Trong hội chứng khóa chặt, bệnh nhân nhận thức được môi trường xung quanh, nhưng bị liệt hoàn toàn các cơ vận động tự chủ, trừ các cơ kiểm soát chuyển động của mắt.

Năm 2014, tờ Daily Mail đã báo cáo vào một phụ nữ 39 tuổi người Anh, Kate Allatt, bị hội chứng khóa chặt.

Không biết về tình trạng của bệnh nhân, các bác sĩ tuyên bố cô bị chết não. Các nhân viên y tế, gia đình và bạn bè đứng cạnh giường ngủ của cô và bàn luận vào việc có nên rút máy hỗ trợ sự sống hay không. Allatt nghe được tất cả nhưng không thể nói với họ rằng mình hoàn toàn tỉnh táo.

Hội chứng khóa chặt giống như bạn bị chôn sống. Bạn có thể nghĩ, có thể cảm nhận, có thể nghe, nhưng hoàn toàn không thể giao tiếp.

Xác nhận chết không nghi ngờ

Nếu bài viết này khiến bạn cảm thấy lạnh sống lưng, thì đừng sợ hãi; Hội chứng Lazarus cực kỳ hiếm gặp, và khả năng bị tuyên bố nhầm là đã chết cũng vậy.

Tuy nhiên, những trường hợp này đã làm nảy sinh câu hỏi vào tiếp nhân định và xác nhận tử vong trong bối cảnh lâm sàng.

để xem liệu dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân có trở lại hay không.

Một số nhà nghiên cứu gợi ý rằng bệnh nhân nên "theo dõi thụ động" trong 10 phút sau khi chết, vì đó là khoảng thời gian mà ROSC chậm nhiều khả năng xảy ra.

"Không nên xác nhận tử vong ở bất cứ bệnh nhân nào ngay sau khi ngừng CPR", các nhà nghiên cứu viết, "và nên đợi ít nhất 10 phút nếu không muốn nói là lâu hơn, xác minh và xác nhận chắc chắn tử vong”.

Tuy nhiên, về việc hiến tạng, 1 số nhà nghiên cứu khác lưu ý rằng chờ 10 phút để xem liệu ROSC có diễn ra không lại rất tai hại.

Các hướng dẫn hiện tại khuyên nên quan sát từ hai đến 5 phút sau khi tim ngừng đập trước khi tuyên bố tử vong; dòng máu chảy vào nội tạng càng bị giảm thiểu lâu thì chúng càng khó phù hợp cho việc hiến tạng.

Căn cứ về thực tế này, các qui trình xác tiếp nhân tử vong khó có thể đánh tráo trong thời gian trước mắt.

Tuy nhiên, các chuyên gia y tế và các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng trong thời đại ngày nay, các bác sĩ có đủ chuyên môn và máy móc để xác định lúc một bệnh nhân nào đó qua đời.

BS. Cẩm Tú

(http://www.medicalnewstoday.com/articles/317645.php)

Khi mỡ “lạc lối” vào mạch máu

Thuyên tắc động mạch phổi là một loại bệnh lý hay gặp với diễn biến nhanh và nặng ngay sau khi khởi phát. Bên cạnh các nguyên do như huyết khối tĩnh mạch chi dưới, tắc mạch ối, 1 nguyên do nữa thường ít được Quan tâm đến: đó là tắc động mạch phổi do mỡ. Đây là hiện tượng mạch máu ở phổi bị thuyên tắc do những hạt mỡ gây ra. Những hạt mỡ này xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, thoát vào mạch máu, lên phổi gây tắc mạch.

Nguyên nhân nào?

Tắc mạch phổi (TMP) do mỡ thường có liên quan với chấn thương gãy, vỡ các xương dài (xương đùi, xương cánh tay, xương sườn), xương chậu và người ta thấy rằng nguyên do gãy kín thì gây TMP nhiều hơn là gãy hở (phần xương gãy có thông ra bên ngoài da). Khoảng 1-3% số bệnh nhân bị gãy các xương dài có nguy cơ bị TMP do mỡ và tỷ lệ này tăng lên theo số lượng xương bị tổn thương. Một số thống kê cho thấy TMP do mỡ có thể lên tới 33% tại những bệnh nhân bị gãy vỡ xương đùi cả 2 bên. Phần to những ca TMP do mỡ diễn ra tại người trẻ, nam giới do có liên quan đến tai nạn các loại (nhất là tai nạn giao thông). Ở trẻ em, TMP do mỡ rất ít gặp với lý do chính là tủy xương trẻ em thì thành phần tạo máu chiếm phần lớn và lượng mỡ không nhiều. Bên cạnh đó, TMP do mỡ cũng có thể do thủ thuật ép tim khi cấp cứu ngừng tim làm gãy xương sườn, do bỏng nặng, ghép tủy xương, thủ thuật hút mỡ (mỡ bụng, mỡ đùi...) trong phẫu thuật thẩm mỹ. Một số các nguyên do ít gặp khác bao gồm: viêm tụy cấp, viêm tủy xương, ly giải các khối u xương, truyền mỡ, bệnh gan nhiễm mỡ do rượu...

Khi mỡ “lạc lối” vào mạch máuBên cạnh các nguyên do như huyết khối tĩnh mạch chi dưới, tắc mạch ối, 1 nguyên do nữa thường ít được chú ý đến: đó là tắc động mạch phổi do mỡ.

Tại sao mỡ gây tắc mạch?

Có ba cơ chế có thể gây TMP do mỡ, thứ đặc biệt cơ chế cơ học do Gauss đưa ra năm 1924. Theo đó, khi các xương dài, xương to bị gãy hoặc do các nguyên do khác làm có hiện tượng những hạt mỡ nhỏ trong máu, các hạt mỡ này sẽ theo đường tĩnh mạch, lên tim phải và theo động mạch phổi lên phổi gây tắc. Vị trí động mạch bị tắc cũng như mức độ nặng sẽ phụ thuộc về kích thước của những hạt mỡ. Cơ chế thứ hai là do hiện tượng lý giải các hạt mỡ trung tính từ tủy xương sau khi về máu thành những sản phẩm có độc tính cao, gây tổn thương mạch máu cùng nhu mô phổi và cơ chế thứ ba có liên quan đến việc hoạt hóa các đông máu ngoại sinh do các sản phẩm từ tủy xương phóng thích ra sau lúc xương gãy dẫn tới việc hình thành các vi cục máu đông. Các cục máu đông này cùng với các nhân tố gây viêm (bạch cầu, các cytokines), tiểu cầu và các hạt mỡ kết hợp với nhau gây thuyên tắc và tổn thương mạch phổi.

Biểu hiện của tắc mạch phổi do mỡ

TMP do mỡ thường diễn ra ở thời điểm 12-72 giờ sau tổn thương. Hiếm gặp các trường hợp khởi bệnh ngoài giai đoạn này. Dấu hiệu của TMP do mỡ bao gồm các triệu chứng của suy hô hấp: kích thích vật vã, tím tái vã mồ hôi, nhịp thở nhanh nông, mạch nhanh, huyết áp tăng, đau ngực và nhiều khi có biểu hiện của phù phổi cấp: suy hô hấp nhanh, khạc bọt hồng. Ngoài ra, người ta cũng thấy có các triệu chứng kèm theo như rối loạn ý thức, co giật hoặc nói khó, liệt chi. Các ban xuất huyết cũng xảy ra ở khoảng 60% các trường hợp TMP do mỡ và được lý giải là do tắc các mạch nhỏ dưới da do mỡ. Một số bệnh nhân cũng có xuất huyết võng mạc, rối loạn nhịp tim và sốt cao. Chẩn đoán xác định TMP do mỡ dựa vào tiền sử bệnh nhân có các nguyên do gợi ý (chấn thương, viêm tụy cấp...) và các thông số cận lâm sàng như khí máu, Xquang tim phổi, siêu âm tim, soi đáy mắt, chụp cắt lớp vi tính sọ não...

Khi mỡ “lạc lối” về mạch máuChấn thương gãy vỡ các xương dài (xương đùi, xương cánh tay), nhất là là gãy kín là 1 trong những nguyên do gây tắc ĐMP.

Chữa trị và phòng ngừa

Điều trị TMP do mỡ bao gồm các bước như cho bệnh nhân thở ôxy và một số thuốc như corticosteroid, aspirin, heparin và N-Acetylcysteine. Trong phần lớn các trường hợp, bệnh nhân phục hồi rất tốt và không để lại di chứng nào đáng kể. Có 1 vài trường hợp suy hô hấp nặng, phải thở máy kéo dài cũng như cần đến các biện pháp hồi sức tích cực khác.

Dự bộ phận TMP do mỡ bằng các biện pháp như cố định rất tốt xương gãy, phẫu thuật sớm, làm giảm áp lực tủy xương chỗ gãy vỡ bằng dẫn lưu, phẫu thuật (để tránh cho những hạt mỡ bị đẩy vào tĩnh mạch do áp lực cao) cũng như điều trị rất tốt các bệnh lý nội khoa như viêm tụy cấp, viêm tủy xương...

TS. BS. Vũ Đức Định

Những phương pháp chữa bệnh tự nhiên được khoa học công nhận

Châm cứu

Châm cứu là 1 thủ thuật trong y học cổ truyền Trung Quốc có từ hàng ngàn năm. Theo ghi tiếp nhân phương pháp này có về khoảng 100 năm trước Công nguyên. Thời thượng cổ người ta dùng đá mài nhọn làm kim châm. Sau đó cùng với sự phát triển của kinh tế và kỹ thuật, vật liệu làm kim không ngừng đánh tráo từ kim bằng đá mài tới kim đồng, kim sắt, kim bạc, kim vàng. Hiện nay vẫn được dùng rộng rãi ở Trung Quốc để điều trị tận gốc các bệnh, trái ngược với cách tiếp cận của Y học Phương Tây. Tuy nhiên, châm cứu đang nhanh chóng nhất được thừa nhận tại phương Tây. Các nghiên cứu cho thấy châm cứu khuyến khích cơ thể sản sinh endorphin giảm đau. Đã có hơn 3000 thử nghiệm lâm sàng nghiên cứu các ích lợi của châm cứu trong điều trị bệnh. Kết quả cho thấy châm cứu giúp giảm đau đáng kể...

Thiền

Mặc dù thiền định đã được lưu hành trong nhiều thế kỷ đặc biệt tại các quốc gia phương Đông, nhưng gần đây do hiệu quả cao mà thiền định mang lại đã khiến các nhà khoa học phương Tây quan tâm, nghiên cứu. Cụ thể trong ngành thần kinh học, nhiều nghiên cứu cho thấy thiền định mang lại những ích lợi tích cực như kiên nhẫn, tự tin, bình tĩnh, giải phóng lo lắng và trầm cảm. Nghiên cứu đo nồng độ cortisol trong huyết tương (chỉ số về mức độ căng thẳng) trước và sau 21 ngày ngồi thiền. Kết quả cho thấy cortisol giảm đáng kể vào ngày cuối thử nghiệm. Do đó nhóm nghiên cứu kết luận rằng thiền thực sự tạo ra hiệu quả chống stress, giải phóng cảm xúc hay những ức chế tâm lý.

Trị liệu bằng âm nhạc

Từ xa xưa, các nền văn hóa trên toàn cầu đã sử dụng âm nhạc để chữa bệnh. Dùng âm nhạc để chữa bệnh lần trước hết được đưa về chương trình đào tạo vào năm 1944 ở Đại học bang Michigan. Những liệu pháp âm nhạc có hiệu quả trong mọi mặt từ giảm cân tới rối loạn tâm lý, ung thư. Theo Hiệp hội trị liệu âm nhạc Mỹ, tổ chức đại diện cho hơn 5.000 nhà trị liệu âm nhạc thì liệu pháp âm nhạc cũng giúp trẻ em tự kỷ phát triển kỹ năng giao tiếp, giúp bệnh nhân Parkinson cải thiện chức năng vận động và thậm chí có thể dùng như 1 liều thuốc giảm đau tự nhân. Nó cũng giúp trẻ em nỗ lự giấc ngủ và tăng cân. Jayne Standley, một giáo sư âm nhạc cho biết ví dụ những trẻ sinh non được nghe hát ru lúc đang bú, chúng sẽ rời thiết bị Hồi sức cấp cứu (ICU) sớm hơn trung bình 11 ngày so với những đứa trẻ sinh non không được tiếp xúc với âm nhạc.

Chữa bệnh bằng năng lượng (Reiki)

Reiki là 1 phương pháp đặt tay trị bệnh, phát triển bởi Tiến sỹ Mikao Usui, người Nhật Bản. Reiki là một nghệ thuật chữa bệnh, dùng nguồn năng lượng vũ trụ, lấy vật truyền dẫn là người thực hành gửi tới người được chữa bệnh. Reiki giúp phục hồi và cân bằng năng lượng thể chất, tâm thần và tình cảm. Tác động trực tiếp của Reiki là giảm căng thẳng và đẩy mạnh thư giãn.

Khí công

Khí công gắn liền với văn minh cổ xưa của nhân loại. Khí công có không ít môn phái không giống chủ yếu chia thành 2 trường phái chính là khí công Phật gia và khí công Đạo gia. Vào những năm của thập niên 70,80 của thế kỷ trước tại Trung Quốc hầu như ai cũng biết vào khí công và gia đình nào cũng có người tập. Cho tới nay, khí công đã được các nhà khoa học công tiếp nhân vào hiệu quả đối với thể chất, tâm lý đặc biệt tại người to tuổi. Theo thống kê vào các báo cáo sức khỏe của học viên Pháp Luân Công ở Bắc Kinh năm 1998: Sau lúc tập luyện Pháp Luân Công phần nhiều bệnh nghiêm trọng như ung thư, tim mạch đã giảm nhẹ triệu chứng thậm chí chữa khỏi.

Thôi miên

Thôi miên được cho là phương pháp giúp điều trị hiệu quả các chứng nghiện: Nghiện thuốc lá hoặc giảm cân, thoát khỏi ám ảnh hay stress. Năm 2007, nhóm nghiên cứu tới từ Trường Đại học Y Mount Sinai đã tuyên bố bố kết quả thử nghiệm cho thấy sử dụng thôi miên trước lúc phẫu thuật tại bệnh nhân ung thư vú không chỉ giúp làm giảm liều lượng thuốc gây tê mà còn giảm cảm giác đau đớn, buồn nôn, khó chịu.

Trị liệu bằng hương thơm

Hương liệu là 1 phương pháp trị bệnh từ thời cổ xưa, khá phổ biến tại Ai Cập, Trung Quốc, n Độ nhằm làm tăng cường sức khỏe, tạo cảm giác thoải mái, thư giãn. Các mùi hương khác nhau có tác dụng khác nhau: Hương hoa oải hương giúp giảm căng thẳng, hương xả giúp chống lại côn trùng, giảm đau nhức cơ thể... Trị liệu bằng hương thơm thu hút phần lớn sự chú ý trong thế kỷ 20, 21. Nghiên cứu sắp đây nhất của các nhà khoa học tại Đại học Calabria, Italia công bố bằng chứng lâm sàng cho thấy những người mắc bệnh Alzheimer giảm đáng kể các triệu chứng sau khi dùng hương liệu. Theo các nhà nghiên cứu: Khi ngửi mùi hương, tín hiệu này sẽ được truyền lên vùng dưới đồi não, khiến não giải phóng các chất như serotonin, endorphin liên quan tới cảm giác thư giãn, bình tĩnh, giảm căng thẳng.

Minh Huệ

(Theo Listverse tháng 6 2017)

Thuốc điều trị viêm khớp có thể chữa được bệnh tim

Hẹp van động mạch chủ có thể gây ra bởi tình trạng vôi hóa động mạch chủ, là tình trạng đặc trưng bởi sự tích tụ canxi trong van động mạch chủ của tim, tình trạng này thường gặp nhất tại người cao tuổi.

Vôi hóa có thể làm cho van động mạch chủ thu hẹp hoặc cứng lại. Điều này có thể dẫn đến hẹp động mạch, do vậy cản trở lưu thông máu qua lỗ van động mạch chủ.

Kết quả là, tim cần được làm việc nhiều hơn để đẩy máu qua lỗ van động mạch chủ, điều này có thể khiến cho tâm thất trái mở rộng  và dày lên. Nếu không được điều trị, hẹp van động mạch chủ có thể dẫn đến nhịp tim bất thường (được gọi là loạn nhịp tim), ngừng tim và suy tim.

Hiện nay, việc sửa chữa hoặc thay thế van động mạch chủ là cách để điều trị hẹp động mạch chủ. Nhưng nghiên cứu mới này có thể đã phát hiện ra một cách để ngăn ngừa tình trạng này, từ đó có thể loại bỏ sự cần thiết phải phẫu thuật.

Đồng tác giả nghiên cứu David Merryman tại Đại học Vanderbilt tại Nashville  và các cộng sự sắp đây đã báo cáo kết quả của họ trên tạp chí Circulation.

Thuốc ngừng sản xuất dư thừa protein liên quan đến hẹp van động mạch chủ

Trong nghiên cứu của họ, Giáo sư Merryman và các cộng sự đã tập trung vào loại protein cadherin-11 (CDH-11).

Protein này được sản xuất bởi các tế bào được gọi là nguyên bào sợi, có trong van tim - rất thiết yếu cho việc chữa lành vết thương, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy nó cũng đóng 1 vai trò nhu yếu trong hẹp van động mạch chủ.

Các nhà nghiên cứu giải thích rằng khi tim lão hóa, các nguyên bào sợi phát triển thành hoạt động quá mức và tạo ra lượng CDH-11 quá mức, dẫn tới viêm van động mạch chủ.

Nhóm nghiên cứu trước hết đã Tiến hành điều tra vai trò của CDH-11 về năm 2013, lúc họ thực hiện 2 nghiên cứu đã vô tình chứng minh  được kích hoạt và khử hoạt tính protein có thể kiểm soát được hoạt động của nguyên bào sợi và sự vôi hóa tế bào.

Trong nghiên cứu mới nhất này, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra tác dụng của thuốc chống viêm gọi là SYN0012, kết hợp với CDH-11 trên bề mặt tế bào của van động mạch chủ.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng SYN0012 ngăn cản các nguyên bào sợi khỏi bị quá hoạt, ngăn ngừa sự dư thừa CDH-11 và viêm van động mạch chủ.

Dựa trên những phát hiện này, nhóm nghiên cứu tin rằng SYN0012 có thể ngăn ngừa hẹp van động mạch chủ.

"Điều thú vị về loại thuốc này là nó có thể cho phép chúng ta cân nhắc 1 chiến lược bộ phận ngừa, như chúng ta làm với các dạng bệnh tim khác - như giảm cholesterol hoặc dùng chất ức chế ACE. "

Khi SYN0012 đã được thông qua các thử nghiệm lâm sàng để điều trị viêm khớp dạng thấp, Giáo sư Merryman và cộng sự lên kế hoạch kiểm tra tính an toàn và hiệu quả của nó trong điều trị hẹp van động mạch chủ.

Nếu thành công, loại thuốc này một ngày nào đó sẽ loại bỏ nhu cầu thay van động mạch chủ.

 

BS Thu Vân

(Theo Univadis/ Medicalnewstoday)

Thực trạng sử dụng thuốc lá tại Việt Nam

Trên thế giới hiện có khoảng 1,3 tỷ người hút thuốc lá. Tại các nước phát triển, tỷ lệ hút thuốc lá đang giảm đi trong những thập kỷ qua, ngược lại, tại các nước đang phát triển, việc dùng thuốc lá có xu hướng gia tăng. Việt Nam vẫn là 1 trong 15 nước có số người hút thuốc lá cao nhất trên thế giới. Mỗi năm, tại Việt Nam có khoảng 40.000 ca tử vong liên quan đến sử dụng thuốc lá.

Điều tra Toàn cầu vào dùng thuốc lá tại người trưởng thành (GATS 2015) do Tổng cục Thống kê phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện năm 2015 cho thấy, so với năm 2010, tỷ lệ hút thuốc lá trong nam giới Việt Nam có giảm khoảng 2%, tuy nhiên, tỷ lệ hút thuốc trong nam giới của chúng ta vẫn rất cao. Tỷ lệ nam giới trưởng thành hút thuốc là 47,4%. Trong giới trẻ độ tuổi 15-24, tỷ lệ hút thuốc trong nam giới là 26,1% và nữ giới là 0,3%. Việt Nam hiện có 33 triệu người không hút thuốc thường xuyên phải hút khói thuốc tại nhà và hơn 5 triệu người trưởng thành không hút thuốc liên tục hít phải khói thuốc ở nơi làm việc. Tỷ lệ hút thuốc thụ động tại các nhà hàng là 84,9%.

Thực trạng sử dụng thuốc lá tại Việt Nam

Điều tra thế giới về tình hình dùng thuốc lá trong học sinh từ 13-15 tuổi năm 2014 cho thấy 47,7% học sinh phơi nhiễm với khói thuốc ở nhà; 66,5% học sinh phơi nhiễm với khói thuốc ở địa điểm công cộng trong nhà.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tử vong do các bệnh không lây nhiễm hiện đang chiếm tới 73% tổng số ca tử vong do bệnh tật và thương tích ở Việt Nam, trong đó, sử dụng thuốc lá là một trong những nguyên do chính gây ra các bệnh không lây nhiễm.

Sử dụng thuốc lá gây ra chi phí khổng lồ cho chăm sóc y tế cho những người bị bệnh do hút thuốc lá, cộng thêm tổn thất do giảm hoặc mất khả năng lao động, do hỏa hoạn và những tổn hại cho môi trường. Trên toàn thế giới, ước tính mỗi năm sử dụng thuốc lá gây thiệt hại khoảng 500 tỷ đô-la Mỹ. Theo đánh mức chi phí của Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm, thuốc lá là nguyên do gây ra cái chết của hơn 7 triệu người, 80% trong số những người này sống ở các quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình. Tại Việt Nam, hàng năm có hơn 40.000 người chết do các bệnh có nguyên do từ thuốc lá gây ra.

Thực trạng sử dụng thuốc lá tại Việt NamMỗi năm, thuốc lá là nguyên nhân gây ra cái chết của hơn 7 triệu người; ở Việt Nam, hàng năm có hơn 40.000 người chết do các bệnh có nguyên do từ thuốc lá gây ra.

Mặc dù lĩnh vực công nghiệp thuốc lá ở Việt Nam có những đóng góp cho ngân sách quốc gia, nhưng phần đóng góp của ngành nghề công nghiệp thuốc lá không đủ để bù đắp những tổn thất kinh tế và sức khỏe do dùng thuốc lá gây ra đối với các cá nhân, gia đình và xã hội. Những tổn thất này bao gồm chi tiêu cho hút thuốc, chi cho khám, điều trị bệnh liên quan tới hút thuốc, tổn thất do mất khả năng lao động vì ốm đau và tử vong sớm, tổn thất do cháy nổ, ô nhiễm môi trường. Năm 2015, người dân Việt Nam đã chi mua thuốc lá số tiền là 31 nghìn tỷ đồng. Ngoài tổn thất do chi mua thuốc hút, tổng giá bán điều trị và tổn thất do mất khả năng lao động vì ốm đau và tử vong sớm cho 5 nhóm bệnh (ung thư phổi, ung thư đường tiêu hóa-hô hấp trên, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, nhồi máu cơ tim, đột quỵ) do hút thuốc gây ra là hơn 23 nghìn tỷ đồng 1 năm.

(Nguồn tham khảo: Chương trình Phòng, chống tác hại thuốc lá Quốc gia)

Nhật Hạ

Muốn khỏe và sống lâu, hãy cầu nguyện

Cầu nguyện, đọc kinh là điều người Mỹ tin làm hàng ngày

Ngoài việc thường xuyên tập thể dục, ăn thực phẩm lành mạnh, sạch và thô (ít chế biến), không uống rượu nhiều, không hút thuốc lá… thì người Mỹ còn liên tục cầu nguyện và đọc kinh để giúp có sức khỏe rất tốt nhất và tuổi thọ cao. Điều này đã được các nghiên cứu khoa học chứng minh rằng: cầu nguyện và thiền định liên tục sẽ mang lại lợi ích rất tốt cho sức khỏe tinh thần và thể chất.

Thường xuyên cầu nguyện giúp con người khỏe và sống lâu

Dĩ nhiên là tại các nước theo Đạo Phật, việc tụng kinh niệm phật cũng có tác dụng rất tốt như vậy.

Tụng kinh niệm phật cũng giúp chúng ta sống khỏe và trường thọ

Mỹ là đất nước có công nghệ hiện đại hơn người, nhưng người dân Mỹ chẳng ngại ngần gì lúc thổ lộ niềm tin về Chúa. Thông điệp “IN GOD WE TRUST” (Tạm dịch: Chúng con tin vào Thiên Chúa” hiện hữu khắp nơi. Các đời tổng thống đều phải tuyên thệ trước Kinh Thánh khi lên nhậm chức.

Nhiều nghiên cứu mới đây cho thấy: Cầu nguyện là hướng giải quyết điều trị thay thế phổ biến nhất tại xã hội Mỹ ngày nay. Nghiên cứu của Đại học Rochester cho hay: hơn 85% những người mắc bệnh nặng đã cầu nguyện, tỉ lệ này cao hơn nhiều so với việc sử dụng thảo mộc hoặc theo đuổi phương thức chữa bệnh phi truyền thống khác.

Các chỉ số sức khỏe rất tốt lên nhờ cầu nguyện

Dù là bạn cầu nguyện cho chính mình hay cho người khác, để chữa lành bệnh hay vì hòa bình trên thế giới, hoặc đơn thuần là ngồi thiền tĩnh tâm… thì tác động tốt tới sức khỏe đều tương tự. Các phương pháp tinh thần này có tác dụng làm giảm bớt mức độ căng thẳng (stress), vốn là một trong những yếu tố nguy cơ chính gây bệnh cho con người. Mặt khác các phương pháp này là công cụ tốt giúp con người có cái nhìn tích cực, vượt qua những thử thách khó khăn trong cuộc sống.

Ngồi thiền tĩnh tâm cũng giúp khỏe mạnh và sống lâu

Tiến sĩ Herbert Benson, chuyên gia tim mạch tại Trường Y Harvard và 1 người đi đầu trong lĩnh vực y học tâm – thân, đã phát hiện điều gọi là “phản ứng thư giãn” diễn ra chỉ mất khoảng cầu nguyện và thiền định. Ở trạng thái này, sự trao đổi chất của cơ thể giảm xuống, nhịp tim chậm, huyết áp giảm xuống, và hơi thở của chúng ta trở nên bình ổn và đều đặn hơn. Trạng thái sinh lý này đồng hành với hiện tượng sóng não chậm hơn, và cảm giác kiểm soát sự tỉnh táo yên tĩnh và yên tâm. Theo TS Benson : điều này có ý nghĩa cần phải có vì có hơn 1 nửa những người tới khám bác sĩ ở Mỹ ngày nay có vấn đề bệnh tật, như trầm cảm, nâng cao huyết áp, viêm loét, đau nửa đầu… gây ra bởi căng thẳng và lo lắng.

Tiến sĩ Andrew Newberg, Giám đốc Trung tâm cho Tâm linh và Tâm học tại Đại học Pennsylvania đã tiến hành 1 nghiên cứu về thiền định và cầu nguyện, cho thấy: ở trạng thái thiền định và cầu nguyện, cơ thể đều giảm hoạt động trong não, làm tăng nồng độ chất dopamine, là chất gắn liền với trạng thái hạnh phúc và niềm vui…

Cầu nguyện các đấng linh thiêng mới rất tốt cho sức khỏe

Tiến sĩ Ken Pargement của Đại học Bowling Green thực nghiệm như sau: hướng dẫn một nhóm người bị chứng đau nửa đầu ngồi thiền 20 phút mỗi ngày và lặp đi lặp lại lời cầu nguyện như: “Thiên Chúa là tốt. Thiên Chúa là hòa bình. Thiên Chúa là tình yêu“. Trong lúc các nhóm khác dùng 1 câu không có ý nghĩa tâm linh, như: “Cỏ là màu xanh lá cây. Cát mềm.” Kết quả là những người thiền định và cầu nguyện tại nhóm 1 ít bị đau đầu hơn và chịu được các cơn đau tốt hơn so với các nhóm còn lại.

Một nghiên cứu được tài trợ bởi National Institutes of Health cho biết: nhóm những người cầu nguyện hàng ngày ít bị tăng huyết áp hơn đến 40% so với những người không cầu nguyện thường xuyên. Còn nghiên cứu của Trường Đại học Y Dartmouth cho thấy: những bệnh nhân phẫu thuật tim có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ thì khả năng phục hồi hơn hẳn so với những người ít liên hệ tới tôn giáo. Nhiều nghiên cứu khác cho thấy những người liên tục cầu nguyện nỗ lự hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc (hoặc mức độ nghiêm trọng) nhiều bệnh, và sống thọ hơn người không cầu nguyện.

Thiền và cầu nguyện ảnh hưởng đến gen

Một băn khoăn đặt ra là: cầu nguyện tác động lên sức khỏe thông qua cơ chế nào?

Nghiên cứu gần đây nhất của TS. Herbert Benson cho rằng: thực hành tâm linh hàng ngày lâu dài giúp vô hoạt các gen kích hoạt viêm và làm chết tế bào. Như vậy tâm linh, tinh thần có thể tác động để sự hoạt hóa các gen trong cơ thể chúng ta và cầu nguyện có thể ảnh hưởng tới các ứng dụng của cơ thể ở cấp căn bản và cấp thiết nhất.

Cầu nguyện và ngồi thiền có tác dụng kích hoạt đến hoạt động của gen

Theo các nhà nghiên cứu thì không thể nói là cầu nguyện có thể thay thế cho các biện pháp điều trị y tế hiện đại, đặc biệt lúc đang trong tình trạng cấp cứu (đó cũng không phải mục đích nguyên thủy hay xuất phát điểm của cầu nguyện).

Thực tế, cũng có 1 số người phản bác tác dụng của cầu nguyện. Nhưng các nhà khoa học hiện đại vẫn khẳng định: đây là các kết quả chân thực, các con số đã thống kê được vào lợi ích sức khỏe lúc người ta chân thành cầu nguyện hay tĩnh tâm thiền định.

BS. Ninh Hồng

(Theo Huffington Post)

Cách trị u nang màng nhện

Lê Thị Dung (ledung@gmail.com)

U nang màng nhện là 1 khối u trong não hoặc tủy sống, chứa đầy dịch não tủy. Là những tổn thương bẩm sinh xuất phát trong quá trình phát triển. U nang màng nhện thường là những u lành tính và chiếm khoảng 1% các tổn thương nội sọ. Triệu chứng của nang màng nhện phụ thuộc vào vị trí, kích thước của nang và thường có biểu hiện lâm sàng như: nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa, thờ ơ; động kinh; tiến triển đột ngột xấu dần, dấu hiệu thần kinh khu trú do nang choán chỗ. Nếu nang màng nhện vùng trên yên có thể có thêm những triệu chứng về nội tiết, đầu lắc, giảm thị lực...

Cách trị u nang màng nhện

Về điều trị, với u nang màng nhện nhỏ và không có triệu chứng sẽ được điều trị bảo tồn. Nếu có triệu chứng lâm sàng xác định được nguyên nhân xuất phát từ nang hoặc nang quá lớn chèn ép nhiều vào cấu trúc não thì cần can thiệp phẫu thuật. Mục tiêu của điều trị phẫu thuật nang màng nhện là dẫn lưu dịch não tủy ra hệ thống tuần dịch não tủy. Một số phương pháp đang được áp dụng hiện nay là chọc hút nang bằng kim nhỏ, phẫu thuật mở thông nang vào các khoang chứa dịch não tủy bình thường, đạt shunt dẫn lưu vào khoang phúc mạc trong ổ bụng. Đương nhiên phẫu thuật có thể đi kèm với những nguy cơ do gây mê, nguy cơ chảy máu và nhiễm trùng, do đó, cần được được bác sĩ xem bệnh và cân nhắc. Trường hợp con bạn cần khám chuyên khoa thần kinh, từ đó bác sĩ sẽ tư vấn phương pháp điều trị cụ thể theo tình trạng bệnh.

BS. Vũ Ngọc Anh

Thực phẩm biến đổi gen

Thực phẩm biến đổi gien là những loại thực phẩm được trồng từ hạt giống đã được biến đổi gen - DNA, hiện tại đã áp dụng đối với đậu tương, ngô, hoặc các loại thực vật khác.

Theo Trung tâm an toàn thực phẩm Mỹ, các loại hạt giống biến đổi gien đang được sử dụng để canh tác đến 90% sản lượng ngô, đậu nành và bông tại Mỹ.

Những loại thực phẩm này đã tìm cách len lỏi vào các bữa ăn trong gia đình, từ bánh mỳ nướng buổi sáng, salad cho tới bánh quy mà bạn nhấm nháp về buổi tối. Tuy nhiên, những người dùng thực phẩm hữu cơ thì tuyệt đối nói không với các thực phẩm biến đổi gien.

Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, các loại rau quả hữu cơ không được phép trồng bằng hạt giống biến đổi gien, các loại thịt dán nhãn thịt sạch không được giết mổ từ những động vật đã được nuôi bằng thực vật biến đổi gien, và các loại đồ ăn sẵn hữu cơ đều không có chứa nguyên liệu biến đổi gien.

Tại sao cần biến đổi gien thực vật

Người ta tạo ra các loại hạt giống biến đổi gien với nhiều mục đích. Đôi lúc mục đích sử dụng các hạt giống này để nâng cao khả năng kháng lại sâu bệnh hoặc để cây trồng cứng cáp hơn. Người ta cũng biến đổi gien cho thực vật để sản phẩm thu được có màu sắc đẹp hơn, vòng đời lâu hơn hoặc để tạo ra những loại thực vật không hạt như dưa hấu và nho…

Một số loại thực vật biến đổi gien cũng chứa hàm lượng các chất dinh dưỡng cao hơn như protein, canxi và folat.

Những người ủng hộ thực phẩm biến đổi gien nói rằng công nghệ này đã mang lại một phương pháp phát triển vững bền để đem đến thực phẩm cho người dân ở những quốc gia đang thiếu lương thực cũng như chưa được tiếp xúc với những loại thực phẩm giàu dinh dưỡng. Vòng đời dài hơn của 1 số thực phẩm biến đổi gien cho phép chúng được trồng phổ biến hơn tại những khu vực xa xôi, hẻo lánh.

Người ta còn nhấn mạnh rằng các giống ngô biến đổi gien cần phun ít thuốc trừ sâu hơn.

Các giống ngô biến đổi gien cần phun ít thuốc trừ sâu hơn.

Liệu thực phẩm biến đổi gien có phải là vấn đề đáng quan tâm

Theo Cơ quan Quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA), các loại thực phẩm từ thực vật biến đổi gien cần được đáp ứng quy định an toàn như các loại thực phẩm không biến đổi gien.

Tuy nhiên, vẫn có không ít quan ngại về những ý kiến cho rằng thực phẩm biến đổi gien có thể gây dị ứng, ức chế miễn dịch, kháng kháng sinh hay ung thư.

Dị ứng

Theo Trung tâm thống kê y tế quốc gia Hoa Kỳ, tình trạng dị ứng thực phẩm tại trẻ em dưới 18 tuổi đã tăng từ 3,4% vào năm 1997 – 1999 lên tới 5,1% về năm 2009-2011. Chưa có những bằng chứng khoa học cụ thể đề cập rằng tình trạng dị ứng thực phẩm có liên quan tới thực phẩm biến đổi gien, không những thế cần thêm những nghiên cứu để làm sáng tỏ mối quan hệ trên.

Tình trạng kháng kháng sinh

Theo Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), các vi sinh vật kháng kháng sinh có ảnh hưởng đến 2 triệu người mỗi năm. Và hàng năm có tới 23.000 người tử vong vì các bệnh nhiễm trùng. Do các loại gien kháng kháng sinh đã được dùng để đưa về các giống ngô và đậu nành nên vẫn có những mối lo ngại rằng đây có thể là nguyên nhân của tình trạng kháng thuốc trên người. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có nghiên cứu xác tiếp nhân điều này.

Những mối quan ngại khác

Vào năm 2013, tạp chí Food and Chemical Toxicology đã rút lại 1 bài báo với nội dung rằng ngô biến đổi gien và thuốc diệt cỏ Roundup là nguyên do gây ung thư và chết non trên mô hình chuột, và cho rằng kết quả của bài báo là chưa thuyết phục. Tổng biên tập của tạp chí cũng nói rằng nghiên cứu này dùng quá ít chuột thí nghiệm và giống chuột được sử dụng này lại rất nhạy cảm với bệnh ung thư.

Từ 8/1/2016, thực phẩm biến đổi gen được đóng gói sẵn bắt buộc phải dán nhãn ghi rõ “biến đổi gen” bằng tiếng Việt.

Quy định về thực phẩm biến đổi gien ở Việt Nam

Từ 8/1/2016, thực phẩm biến đổi gen được đóng gói sẵn bắt buộc phải dán nhãn ghi rõ “biến đổi gen” bằng tiếng Việt.

Theo đó, thực phẩm biến đổi gen bao gói sẵn có ít nhất một thành phần nguyên liệu biến đổi gen lớn hơn 5% tổng vật liệu được dùng đều phải ghi nhãn khi lưu thông tại thị trường Việt Nam.

Kể từ lúc thông tư này có hiệu lực, những thực phẩm biến đổi gen đang lưu thông trên thị trường sẽ buộc phải ghi nhãn theo quy định. Các thực phẩm biến đổi gen không ghi nhãn theo quy định sẽ không được tiếp tục sản xuất và nhập khẩu sau 8/1.

Tuy nhiên, quy định trên đây chỉ ứng dụng đối với những mặt hàng đóng gói sẵn. Các thực phẩm tươi sống, thực phẩm chế biến nhưng không bao gói không phải tuân thủ các quy định này.

Hiện tại, vẫn chưa có chứng cứ khoa học nào khẳng định dùng thực phẩm biến đổi gen có hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, trong lúc thực phẩm biến đổi gen vẫn là 1 vấn đề gây tranh cãi, việc dán nhãn để người tiêu sử dụng biết là rất cần thiết. Đây cũng là quy định được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.

Tại Việt Nam, dù chỉ mới công tiếp nhân 4 giống ngô biến đổi gen (chưa tiến hành trồng đại trà), song việc nhập khẩu thực phẩm biến đổi gen (đậu tương, ngô,… ) là thực tế từ khoảng 10 năm gần đây. Do đó, việc quy định ghi nhãn đối với thực phẩm biến đổi gen sẽ góp phần minh bạch thông tin để người tiêu dùng có thể lựa chọn.

Top 10 thực phẩm biến đối gen

TS.BS. Trương Hồng Sơn - Viện Y học Ứng dụng Việt Nam